Điều này dường như thể hiện rằng giới đầu tư đã ngừng tin vào việc các ngân hàng trung ương có thể làm những gì họ cần để chuyển hướng nền kinh tế. “Tôi nhìn thấy thị trường phấn khởi lúc ban đầu… nhưng tôi có rất nhiều câu hỏi về việc bản chất lâu dài của nó”, nhà phân tích thị trường Peter Boockvar tại hãng Lindsey Group nói.
Có thể phản ứng trên xảy ra là vì giới đầu tư cho rằng những động thái tích cực từ các ngân hàng trung ương không còn thực sự đạt được mục tiêu. Các hành động đã từng kích thích thị trường tăng điểm giờ đây ảnh hưởng rất hạn chế.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) hồi tháng 1 gây ngạc nhiên cho nhiều người bằng cách áp ụng chính sách lãi suất âm với hy vọng tạo ra nhu cầu trong nền kinh tế. Ngay lập tức, chỉ số chứng khoán Nikkei 225 tăng, yen Nhật giảm giá trị so với đô la Mỹ với kỳ vọng rằng động thái trên sẽ kích cầu xuất khẩu. Song sau đó sáu tuần, Nikkei 225 đi xuống và yen Nhật lại tăng giá so với USD.
“Thị trường đã không còn đi lên với lãi suất tiêu cực. Lý do là vì lãi suất âm có hại cho hệ thống ngân hàng”, vua trái phiếu kiêm nhà đầu tư, tỉ phú Jeff Gundlach nhận định.
ECB lần đầu giới thiệu lãi suất âm vào ngày 5/6/2014. Từ đó đến nay, chỉ số Stoxx 50 giảm 5%. Chỉ số DAX của Đức và CAC của Pháp cũng đi xuống.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) là ngân hàng trung ương đầu tiên tích cực sử dụng chính sách tiền tệ để biến chuyển nền kinh tế. Fed hạ lãi suất xuống mức 0 và bắt đầu chương trình mua trái phiếu khổng lồ được biết đến với tên gọi nới lỏng định lượng hay nới lỏng tiền tệ (QE) vào năm 2008. Động thái này đã giúp thị trường khởi sắc đáng kể.
Khi Fed càng cố gắng thúc đẩy thị trường, tác động nhận lại được càng ít đi. Ở đợt đầu tiên Fed thực hiện QE từ tháng 12/2008 đến tháng 11/2010, chỉ số S&P 500 đã tăng 33%. Song thị trường đã không tăng nhiều với đợt nới lỏng định lượng lần thứ 2 và 3.
Vốn đầu tư của Trung Quốc vào các nền kinh tế phương Tây có khả năng tiếp tục lập kỷ lục mới trong năm nay...
Năm 2015, tập đoàn ChemChina của Trung Quốc đã có thỏa thuận trị giá 7,9 tỷ USD với tập đoàn Pirelli của Italy - Ảnh: Financial Times/Bloomberg.
Lượng vốn đầu tư mà Trung Quốc rót vào châu Âu và Mỹ đã đạt mức cao chưa từng có, bất chấp sự giảm tốc của nền kinh tế nước này.
Các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân Trung Quốc đã đầu tư tổng cộng 23 tỷ USD vào châu Âu và 15 tỷ USD vào Mỹ trong năm 2015 - tờ Financial Times dẫn một báo cáo của công ty luật Baker & McKenzi và công ty tư vấn Rhodium Group cho biết.
Tuy nhiên, các con số cũng cho thấy tốc độ đầu tư của Trung Quốc vào các nền kinh tế phương Tây có thể đang giảm tốc.
Vốn đầu tư mới của Trung Quốc vào châu Âu trong năm 2015 chỉ tăng 28% so với mức 18 tỷ USD của năm 2014. Trong năm 2014, mức đầu tư tăng gấp 2 lần so với năm 2013.
So với năm 2014, lượng vốn đầu tư mà Trung Quốc rót vào Mỹ tăng 17%, từ mức 12,8 tỷ USD.
Lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc đã nhiều phiên kéo lùi thị trường chứng khoán toàn cầu trong mấy tháng gần đây, ảnh hưởng tới triển vọng nền kinh tế của khu vực Eurozone và nhiều khu vực khác. Những mối lo này là một trong những lý do khiến Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) được dự báo sẽ tung một loạt biện pháp kích cầu mới trong cuộc họp diễn ra vào ngày 10/3.
Trong khi đó, những nhân vật như tỷ phú giàu nhất Trung Quốc Wang Jianlin đã lên tiếng bày tỏ lo ngại về các khoản đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc ở châu Âu, cho rằng những khoản đầu tư này thiếu tiêu chuẩn quản lý quốc tế.
Tuy nhiên, ông Michael DeFranco, người phụ trách mảng M&A ở Baker & McKenzie, đánh giá cao hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc vào các nền kinh tế phát triển.
“Đây là giai đoạn kinh tế biến động, nhưng chúng tôi vẫn thấy các công ty Trung Quốc thể hiện sự tin tưởng và có những bước đi lớn ở thị trường châu Âu và Bắc Mỹ”, ông DeFranco nói.
Vốn đầu tư của Trung Quốc vào các nền kinh tế phương Tây có khả năng tiếp tục lập kỷ lục mới trong năm nay. Chỉ riêng trong 6 tuần đầu năm, các công ty Trung Quốc đã công bố số thỏa thuận tiềm năng với tổng trị giá 70 tỷ USD tại các thị trường Mỹ và châu Âu. Tuy nhiên, không phải tất cả các thỏa thuận này sẽ được hoàn tất.
Năm 2015, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của Trung Quốc vào khu vực Eurozone tăng 37%, đạt mức 17,1 tỷ USD, từ mức 12,5 tỷ USD của năm 2014.
Italy, một trong những nền kinh tế yếu nhất Eurozone, là quốc gia nhận nhiều vốn đầu tư từ Trung Quốc hơn bất kỳ nước nào khác trong EU. Trong đó, lớn nhất là thỏa thuận trị giá 7,9 tỷ USD giữa tập đoàn Pirelli của Italy và tập đoàn ChemChina của Trung Quốc.
Pháp là nước nhận nhiều vốn đầu tư Trung Quốc lớn thứ nhì trong EU, ở mức 3,6 tỷ USD trong năm 2015, trong đó có nhiều thỏa thuận lớn trong lĩnh vực du lịch và cơ sở hạ tầng.
Tại Mỹ, các bang New York, California, và Texas nhận nhiều vốn đầu tư nhất từ Trung Quốc. Riêng New York nhận 5,4 tỷ USD vốn Trung Quốc trong năm ngoái, chủ yếu nằm ở ba thỏa thuận lớn về tài chính và bất động sản.
Tập đoàn CJ “rót” thêm 500 triệu USD vào Việt Nam
Trao đổi với Báo Đầu tư Online - Baodautu.vn, ông Chang Bok Sang, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn CJ Việt Nam cho biết, trong năm 2016, CJ sẽ đầu tư thêm 500 triệu USD vào Việt Nam, nâng tổng vốn đầu tư của CJ tại Việt Nam đạt mốc 900 triệu USD.
Nguồn vốn này sẽ được CJ đầu tư theo hai hình thức, đầu tư trực tiếp xây dựng nhà xưởng và đẩy mạnh hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A)
Khoản 500 triệu USD này được CJ tập trung vào 3 lĩnh vực: văn hóa phẩm (đầu tư thêm hệ thống rạp CGV; hợp tác với VTV trong sản xuất phim và xuất khẩu phim...); sản xuất thực phẩm và hoạt động kho vận (logistic)
"Đây là bước đi hiện thực hóa tuyên bố của Chủ tịch tập đoàn CJ trong Hội nghị CEO CJ toàn cầu tổ chức tại Việt Nam vào năm 2012, là mở rộng đầu tư tại Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có tổng vốn đầu tư của CJ lớn thứ 3 trên quy mô toàn cầu chỉ sau Hàn Quốc và Trung Quốc vào năm 2020. Nói cách khác, khoản đầu tư của CJ tại Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng trong những năm tới”, ông Chang Bok Sang nhấn mạnh.
Khoản 500 triệu USD này được CJ tập trung vào 3 lĩnh vực, trong đó sẽ đầu tư thêm hệ thống rạp CGV.
Trả lời câu hỏi của Báo Đầu tư Online - Baodautu.vn về thông tin CJ muốn trở thành cổ đông của Vissan? Ông Chang Bok Sang cho biết, hiện nay CJ đang sở hữu 4% cổ phần của Vissan và đang tiếp tục nâng cao khả năng sở hữu cổ phiếu này.
“Vissan là một doanh nghiệp sản xuất và chế biến thực phẩm hàng đầu Việt Nam, và nếu tham gia vào cổ đông của Vissan, CJ sẽ đầu tư vào công nghệ và kỹ thuật để đưa sản phẩm Vissan cạnh tranh tốt ở thị trường nội địa và xuất khẩu đi thế giới. Việc kết hợp hai thương hiệu lớn giữa Vissan và CJ sẽ thúc đẩy thương hiệu Vissan phát triển nhiều hơn nữa”, ông Chang cho biết.
CJ chính thức đầu tư vào Việt Nam từ năm 1998 với nhiều lĩnh vực đa dạng như nông thủy sản, bánh ngọt, kênh truyền hình mua sắm (Home Shopping), giải trí và truyền thông, logistics, thức ăn gia súc, thực phẩm, sản xuất phim điện ảnh, phim truyền hình, trồng trọt, bất động sản… Chỉ riêng trong giai đoạn 2011-2015, CJ đã có mức tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 26,73%.
Trong đó, chỉ riêng lĩnh vực nông nghiệp, CJ hiện đang đầu tư 4 nhà máy sản xuất thức ăn gia súc ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư gần 200 triệu USD. Ngoài ra, CJ còn đầu tư mạnh trong lĩnh vực giải trí và truyền thông hiện là chủ đầu tư cụm rạp CGV. Trong năm 2015, CJ đã hợp tác với VTV sản xuất và xuất khẩu một số phim như "Em là bà nội của anh"; "Để mai tính 2"...
Trên lĩnh vực thực phẩm, CJ chính là chủ đầu tư hệ thống cửa hàng bánh Tour Les Jour tại TP.HCM cũng như xây dựng các nhà máy sản xuất trong lĩnh vực thực phẩm, sản xuất bột mì...
Còn một lĩnh vực CJ có tiềm năng ở Hàn Quốc là bán lẻ cũng đang được CJ xem xét mở rộng đầu tư tại Việt Nam trong năm 2016. “Hiện nay, chúng tôi đã qua giai đoạn khảo sát thị trường và đang trong giai đoạn tìm đối tác chiến lược để triển khai đầu tư trong giai đoạn 2016-2017”, ông Chang Bok Sang cho biết.
Đề nghị Mỹ công nhận thêm 22 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn đưa cá tra vào Mỹ
Phía Mỹ đã công bông bố 23 cơ sở sản xuất của Việt Nam đủ cơ sở xuất khẩu ca tra sang Mỹ. NAFIQAD đang đề nghị Mỹ công nhận tiếp 22 cơ sở còn lại.

Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (NAFIQAD), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, sau khi đã tổng hợp danh sách 45 cơ sở nộp hồ sơ đăng ký XK cá tra sang thị trường Hoa Kỳ cùng với sự đồng ý của Bộ , Cục đã gửi danh sách 45 cơ sở này cho Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), trong đó có 23 cơ sở đang và tiếp tục xuất khẩu, 22 cơ sở có nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, ngày 01/3/2016, Cục Kiểm tra và ATTP (FSIS), thuộc USDA đã công bố trên website danh sách chỉ có 23 cơ sở được phép chế biến xuất khẩu cá và sản phẩm từ cá họ Siluriformes sang Hoa Kỳ. Còn lại 22 cơ sở đang có nhu cầu xuất khẩu chưa được USDA đưa vào danh sách.
Ngày 7/3/2016, NAFIQAF đã gửi Văn bản số 376/QLCL-CL1 đề nghị Cục Kiểm tra và ATTP (FSIS), USDA xem xét, công nhận 22 cơ sở còn lại vào danh sách các DN nước ngoài được phép chế biến xuất khẩu cá và sản phẩm cá họ Siluriformes vào Hoa Kỳ và sẽ có thông báo tới các DN khi có phản hồi từ FSIS.
Vasep cũng lưu ý, 22 DN chưa được USDA đưa vào danh sách đủ điều kiện xuất khẩu sang Mỹ cần gửi hồ sơ, bằng chứng theo hướng dẫn của Cục tại công văn 113/QLCL-CL1 để Cục tổng hợp và gửi đăng ký với FSIS.
Trước đó, ngày 02/12/2015, FSIS đã có công thư gửi NAFIQAD hướng dẫn thực hiện Quy định thanh tra bắt buộc cá và sản phẩm từ cá họ Siluriformes (trong đó có cá tra, basa của Việt Nam XK vào Hoa Kỳ). Theo đó, để việc XK cá tra, basa của Việt Nam vào Hoa Kỳ được tiếp tục trong thời gian chuyển tiếp (từ 01/3/2016 - 31/8/2017), trước ngày 01/3/2016, NAFIQAD cần gửi một số tài liệu pháp lý về việc kiểm soát các sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam và danh sách các DN đang và sẽ tiếp tục XK sản phẩm cá thuộc họ Siluriformes vào thị trường Hoa Kỳ.
Thực hiện yêu cầu của FSIS, ngày 19/01/2016, NAFIQAD đã có công văn số 113/QLCL-CL1 thông báo rộng rãi đến các DN đề nghị đăng ký để lập danh sách theo yêu cầu của phía Hoa Kỳ. Tại Công văn 113/QLCL-CL1, Cục đã hướng dẫn các DN rất cụ thể trong việc đăng ký cũng như nộp các hồ sơ, bằng chứng kèm theo để đưa vào danh sách. Sau khi tổng hợp, có tất cả 45 cơ sở đã nộp hồ sơ, trong đó có 23 cơ sở đã gửi đầy đủ hồ sơ về việc đang và sẽ tiếp tục XK như yêu cầu của FSIS thể hiện qua bằng chứng về việc đã XK trong năm 2015 và các hợp đồng với nhà nhập khẩu Hoa Kỳ trong đó có ghi rõ khối lượng và thời gian giao hàng trong năm 2016. 22 cơ sở còn lại được đưa vào phần có nhu cầu XK do không cung cấp các hồ sơ, bằng chứng về việc đang và sẽ tiếp tục XK như hướng dẫn của công văn 113/QLCL-CL1.
Trong các cuộc họp với FSIS, NAFIQAD cũng đã khẳng định cả 45 cơ sở trong danh sách đều đã được Cục kiểm tra, giám sát đảm bảo đủ điều kiện an toàn thực phẩm phù hợp với quy định của Cục Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (FDA) thuộc Bộ Y tế Hoa Kỳ, 22 cơ sở có nhu cầu xuất khẩu cá tra, basa vào Hoa Kỳ hiện đang tích cực tìm đối tác để xuất khẩu trong thời gian tới.
Theo thông báo của FSIS tại các buổi làm việc với các cơ quan của Bộ Nông nghiệp và PTNT Việt Nam, FSIS sẽ chính thức kiểm tra các lô hàng cá tra, basa của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ ngày 15/4/2016 (tính theo ngày lô hàng đến cảng của Hoa Kỳ). Các lô hàng cá tra, basa nhập khẩu vào Hoa Kỳ vi phạm các yêu cầu về ghi nhãn (tên thương mại, khối lượng tịnh) hoặc kết quả kiểm tra điều kiện vệ sinh lô hàng, chỉ tiêu hóa chất kháng sinh không phù hợp quy định của Hoa Kỳ sẽ không được thông quan.
Trong thời gian chuyển tiếp, để kết quả kiểm tra các lô hàng cá tra, basa nhập khẩu từ Việt Nam do FSIS thực hiện không ảnh hưởng đến quá trình đánh giá tương đương sau này, Cục yêu cầu các DN có tên trong danh sách được phép xuất khẩu cá tra, basa sang Hoa Kỳ thực hiện hai điều.
Thứ nhất, chủ động rà soát hệ thống tự kiểm soát chất lượng, ATTP đảm bảo sản phẩm cá tra chế biến XK vào Hoa Kỳ đáp ứng các quy định của thị trường này về hóa chất kháng sinh, kim loại nặng, thuốc trừ sâu, vi sinh vật,… theo quy định tại Final Rules (Tham khảo các chỉ tiêu, giới hạn tối đa cho phép, phương pháp kiểm nghiệm do FSIS thực hiện kiểm tra nhập khẩu từ ngày 15/4/2016 tại Phụ lục 3). Ngoài ra, các DN cần nghiên cứu kỹ các quy định về ghi nhãn tại Mục 541 (Part 541) Final Rule và thông tin về nước xuất xứ, tên và mã số cơ sở sản xuất.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh vướng mắc đề nghị các DN gửi văn bản về Cục để được hướng dẫn, phối hợp xử lý
(
Tinkinhte
tổng hợp)