Tôm tăng giá kỷ lục: Người mừng, kẻ lo
Những nhà đầu tư nào đang dòm ngó cơ hội ở Triều Tiên?
Thiệt hại chục ngàn tỷ do cấm xuất khẩu quặng sắt
Hồng Kông muốn nhập từ Việt Nam 1.500 con heo/ngày
100% gà Trung Quốc nhập vào Việt Nam là trái phép
Tin kinh tế đọc nhanh sáng 30-03-2016
- Cập nhật : 30/03/2016
Ngân hàng Nga tranh thủ vơ vét vàng trên thế giới
Ngân hàng Nga trong tháng Hai năm 2016 đã thành cơ sở mua vàng nhiều nhất trong số các ngân hàng trung ương trên thế giới, theo Sputniknews.
Điều phối viên của Ngân hàng Nga đã mua 356.000 ounce (hơn 10 tấn) thứ kim loại quý này. Đó là dữ liệu từ báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế(IMF).
Chiếm vị trí thứ hai là Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, mua khoảng 320.000 ounce vàng. Đây là dữ liệu của phía Trung Quốc (IMF chưa kết cấu dữ liệu này vào bản thống kê tháng Hai). Cũng tiếp tục gia tăng mua vàng là Kazakhstan, với khối lượng gần 85.000 ounce.
Lớn nhất về bán vàng từ dự trữ vàng ngoại tệ, theo dữ liệu của IMF vào tháng Hai, là Thổ Nhĩ Kỳ, trong tháng đã bán ra khoảng 1,2 triệu ounce kim loại quý (hơn 7% lượng vàng dự trữ của quốc gia).
Theo dữ liệu mới nhất của Ngân hàng Nga, dự trữ vàng ngoại tệ của đất nước là 386,9 tỷ USD.
Lãi suất ODA tăng, doanh nghiệp cũng sẽ khốn khó theo?
Với việc tăng lãi suất ODA, doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận thực tế rằng trong năm 2016 tỉ giá sẽ biến động nhiều hơn năm 2015.
ODA, món ngon giá rẻ trong thời gian dài, ðã bắt đầu xuất hiện “vị chát”. Mới đây, Bộ Tài chính đã nêu lên những con số đáng giật mình. Theo ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính Quốc tế (Bộ Tài chính), mức độ ưu đãi của những khoản cho vay từ các đối tác phát triển dành cho Việt Nam đang thay đổi theo chiều hướng bất lợi.
Thay đổi lớn tập trung vào hai yếu tố cốt lõi nhất liên quan đến lợi ích và sự ổn định của hầu hết các khoản ODA là kỳ hạn và lãi suất. Đáng lưu tâm nhất, vốn vay ODA đang chiếm tỉ trọng lớn cấu thành nên tổng dư nợ công quốc gia, dư nợ này sẽ đạt ngưỡng “đỏ” 65% GDP vào năm sau.
Thay đổi đầu tiên là kỳ hạn trung bình của các khoản vay vốn ODA còn hiệu lực đồng loạt rút ngắn còn trên dưới 50% thời gian. Thời hạn cho vay ODA của các tổ chức như Ngân hàng Thế giới hay Ngân hàng Phát triển châu Á trước thời điểm năm 2010 thường lên tới tối đa 40 năm. Từ năm 2011 đến nay, thời hạn này chỉ còn tối đa 20 năm, bao gồm cả thời gian ân hạn. Nguyên do là từ 5 năm trước, Việt Nam đã xếp trong nhóm các nước có thu nhập trung bình.
Các chủ nợ truyền thống của Việt Nam, không kể đến yếu tố hiệu quả sử dụng đồng vốn ODA, cũng đồng loạt yêu cầu phải được trả nợ nhanh hơn. Hệ quả là bình quân thời gian vay nợ hiện nay rút xuống còn 12,5 năm cho các khoản nợ công. Đại diện Bộ Tài chính cũng khẳng định khoản vay có thời gian dài nhất hiện có của Việt Nam cũng chỉ đến năm 2055. Trong vòng 5 năm bắt đầu từ năm 2022, căng thẳng về dòng tiền trả lãi và gốc vốn vay ODA sẽ đạt đỉnh.
Vì thế, việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường sơ cấp trong vài năm gần đây cũng thay đổi mạnh về cấu trúc kỳ hạn. Điển hình, năm ngoái, kỳ hạn bình quân trái phiếu huy động kéo dài tăng lên 2 năm so với năm 2014. Trong 220.000 tỉ đồng ngân sách dự kiến sẽ thu về được trong năm 2016 từ hoạt động phát hành trái phiếu chính phủ, kỳ hạn trên 5 năm sẽ bắt buộc chiếm trên 70%. Động thái này cho thấy cơ quan điều hành đang cân đối lại khoản nợ quốc gia và nỗ lực giảm những tác động, sự phụ thuộc của nguồn vay ngoại tệ từ quốc tế, trong đó có vay ODA, sang nguồn vay từ trong nước để phục vụ cân đối ngân sách.
Lãi suất vay ODA cũng ngày càng đắt hơn và không ngoại trừ khả năng một “mặt sàn” lãi suất vay vốn mới đã được thiết lập. Lãi suất vay trung bình của các khoản nợ ODA bằng ngoại tệ của Việt Nam đã dịch chuyển theo chiều hướng đi lên từ 0,8% (2010) lên mức 2-3,5% ở thời điểm hiện tại. Cuối năm ngoái, sự kiện Việt Nam được chấp thuận phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế với trị giá 3 tỉ USD, kỳ hạn từ 10-30 năm, cũng nhằm mục tiêu cơ cấu lại nợ trong nước.
Còn nhớ, năm 2014 Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỉ USD trái phiếu quốc tế kỳ hạn 10 năm, với lợi suất cố định 4,8%/năm. Giữa năm ngoái, Ngân hàng Vietcombank cũng đã hoàn tất giao dịch mua 1 tỉ USD trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5-10 năm từ Bộ Tài chính với lãi suất cũng xoay quanh mức 4,8%/năm.
Có thể thấy chỉ sau 1 năm, chi phí đi vay của ngân sách quốc gia đã đắt hơn vì tuy có lãi suất tương đương, nhưng kỳ hạn vay đã ngắn lại. Giới tài chính quốc tế đánh giá, nếu mặt bằng lãi suất vay ưu đãi ODA chạm ngưỡng 3,5% thì lãi suất trái phiếu chính phủ của Việt Nam nhiều khả năng không thấp hơn ngưỡng này.
Tỉ lệ thuận với chiều đi lên của lãi suất vay ngoại tệ, lãi suất bằng tiền đồng cũng có diễn biến tăng dần. Theo nhận định của Công ty Chứng khoán VPBS, trên thị trường nợ, mặt bằng chung lãi suất huy động sẽ tiếp tục tăng. Trong đó, lợi suất trái phiếu 5 năm đạt 7-7,3% (2016) so với mức 6,58% (2015) và 6,54% (2014).
Xét trên bình diện vĩ mô, thông thường khi giá vốn vay của cả một quốc gia đang ở mức lãi suất mới, vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh của khối doanh nghiệp trong nền kinh tế sẽ khó có lãi suất thấp hơn được. Những năm tới, nếu muốn giảm dần tỉ lệ nợ/GDP, việc Chính phủ cân nhắc chính sách thắt chặt tài khóa có thể sẽ diễn ra.
Nửa năm trước, trong báo cáo của Ngân hàng Thế giới điểm lại tình hình kinh tế của Việt Nam, tổ chức này đã xác nhận giá trị nợ công đã đạt 110 tỉ USD. Nghĩa vụ thanh toán nợ công (tổng thanh toán nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương) đã tăng từ 22% (2010) lên gần 26% tổng thu ngân sách năm 2014. Chi trả lãi vay hiện chiếm gần 7,2% chi ngân sách, lấn át các khoản chi tiêu khác.
Nguyên nhân trực tiếp nằm ở mức bội chi ngân sách 2015 là 254.000 tỉ đồng, tương đương 4,95% GDP. Trong đó, tổng chi cân đối ngân sách (1.273.200 tỉ đồng) luôn có “truyền thống” cao hơn rất nhiều so với tổng thu (1.019.200 tỉ đồng).
Do Ngân hàng Nhà nước chỉ gia hạn vay ngoại tệ đến hết tháng 3.2016, sau đó sẽ xem xét lại đối tượng đi vay ngoại tệ, đòi hỏi nhà điều hành doanh nghiệp nên có xu hướng thay đổi tư duy vay vốn. Với ngân hàng, trước đây, doanh nghiệp Việt thường gửi và vay vốn bằng ngoại tệ thì nay, họ cần nghĩ đến quan hệ mua - bán ngoại tệ thông qua các hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi lãi suất nhằm chủ động phòng ngừa rủi ro.
Ông Phạm Hồng Hải, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, khẳng định: “Doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận thực tế rằng trong năm 2016, tỉ giá sẽ biến động nhiều hơn năm 2015”. Cụ thể, nếu lãi suất đồng USD tăng lên mà lãi suất tiền đồng không điều chỉnh thì sẽ tạo áp lực lên tỉ giá. Do đó, doanh nghiệp nếu không đảm bảo có nguồn thu ngoại tệ tốt, nên ngay lập tức cân nhắc thay thế, chuyển đổi các khoản vay tín dụng từ USD sang đồng nội tệ.
Samsung đóng cửa nhà máy cũ ở TP.HCM
Thông tin cho biết, Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc), đã chính thức đóng cửa nhà máy chuyên sản xuất tivi và màn hình vi tính Samsung Vina, có trụ sở tại Thủ Đức (TP.HCM).
Việc đóng cửa nhà máy SAVINA đã đánh dấu một bước ngoặt mới của Samsung tại thị trường Việt Nam, đó là đưa Tổ hợp Samsung Electronics HCMC CE Complex (SEHC), vốn đầu tư 2 tỷ USD, chính thức đi vào hoạt động.
.
SAVINA là nhà máy đầu tiên mà Samsung xây dựng tại Việt Nam. Nhà máy này nhận giấy phép đầu tư từ 1995, và chính thức khánh thành vào tháng 9/1996, với sản phẩm đầu tiên là chiếc TV màu với màn hình CRT.
Ban đầu, do quy định của pháp luật Việt Nam, Samsung phải phải liên doanh với Công ty cổ phần TIE để triển khai dự án này, với tổng vốn đầu tư ban đầu là 36,5 triệu USD. Chỉ tới cuối tháng 7/2013, khi Samsung chi hơn 96 tỷ đồng mua lại phần vốn góp của TIE trong liên doanh thì SAVINA mới chính thức trở thànhdoanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
.
Tuy chỉ là dự án quy mô nhỏ, không sánh được với hai tổ hợp sản xuất thiết bị di động tại Bắc Ninh và Thái Nguyên, vốn đầu tư 7,5 tỷ USD, song SAVINA lại gắn bó với chặng đường phát triển của Samsung tại thị trường Việt Nam.
Cũng từ dự án này, với sự nỗ lực của cán bộ, nhân viên SAVINA, thương hiệu Samsung từng bước được khẳng định. Ban đầu, các sản phẩm của SAVINA luôn ở hàng “chiếu dưới” so với các thương hiệu đến từ Nhật Bản, đặc biệt là SONY, nhưng giờ đây, đã luôn trở thành thương hiệu được người tiêu dùng Việt Nam tin yêu. Các sản phẩm tivi, màn hình máy tính của Samsung luôn dẫn đầu thị trường.
Việc đóng cửa nhà máy cũ lại mở ra một cơ hội mới cho Samsung tại thị trường Việt Nam, khi SEHC đi vào hoạt động.
SEHC được khởi công xây dựng vào tháng 5/2015, với vốn đầu tư 1,4 tỷ USD, song đã được nâng lên thành 2 tỷ USD hôm 29/12/2015. Nay tổ hợp này đã bắt đầu quá trình vận hành tại Việt Nam.
Theo ông Lee Sangsu, Tổng giám đốc Công ty TNHH Samsung Electronics HCMC CE Complex, SEHC khi hoàn thiện sẽ trở thành một trong bốn nhà máy sản xuất các sản phẩm thiết bị điện tử gia dụng lớn nhất của Samsung trên toàn cầu.
Như vậy, tại Việt Nam, Samsung Điện tử sẽ có ba khu tổ hợp công nghệ cao, với tổng vốn đầu tư của cả ba khu này là 9,5 tỷ USD.
Đầu tư gần 27.840 tỷ đồng xây cao tốc Nha Trang – Phan Thiết
Theo đó, Dự án có chiều dài 234,8 km, bắt đầu từ xã Diên Thọ, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa và kết thúc tại xã Hàm Kiệm, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.
Tuyến được thiết kế với quy mô 6 làn xe, trong đó giai đoạn I xây dựng 4 làn xe, bề rộng nền đường 17 m, vận tốc thiết kế 100 km/h, riêng các đoạn qua hầm đạt 80 km/h. Ngoài 94 cầu có tổng chiều dài 12 km, trên tuyến còn có 4 hầm đường bộ, trong đó hầm lớn nhất là Núi Vung dài 1,7 km.
Dự án có tổng mức đầu tư là 27.837 tỷ đồng này được chia làm 2 hợp phần, trong đó hợp phần 1 đoạn từ Km53+400 – Km 142 + 5000 được đầu tư bằng vốn ODA có tổng mức đầu tư 9.279 tỷ đồng; hợp phần II đoạn từ Km0 – Km53+400 và đoạn Km142 +500 đến Km235 có tổng mức đầu tư 16.147 tỷ đồng sẽ đầu tư theo hình thức BOT. Đối với hợp phần BOT, nhà đầu tư sẽ thu phí hoàn vốn trong vòng 21 năm với mức phí khởi điểm là 1.500 đồng/km, sau mỗi 3 năm, tăng phí 1 lần mỗi lần là 12%.
Công trình dự kiến khởi công vào quý III/2017 và hoàn thành sau 3 năm xây dựng.
Được biết, mục tiêu của dự án nhằm giải quyết nhu cầu vận tải hành khách và hàng hóa, rút ngắn thời gian đi lại từ các địa phương tới các khu vực tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận để từng bước hoàn chỉnh quy hoạch đồng bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông từ Hà Nội-Cần Thơ.
Fed hoàn toàn có thể tăng lãi suất trong tháng 4
Đợt tăng lãi suất tiếp theo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể tới sớm hơn dự báo của đa số.
Thống đốc FED St. Louis – ông James Bullard – cho rằng rất có thể lãi suất sẽ được tăng trong tháng 4. Ông đã tỏ rõ quan điểm này trong cuộc phỏng vấn với Bloomberg ngày 23/3 và nhắc lại lập trường của mình trong bài phát biểu ngày 24/3.
Theo ông Bullard – một trong những người có quyền bỏ phiếu trong Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) – cho biết điều kiện để có thể tăng lãi suất trong cuộc họp tháng 4 là báo cáo việc làm tốt vào tuần này và số liệu lạm phát chắc chắn.
Ý kiến này có của ông có phần đi ngược lại với dự báo của các nhà đầu tư khi hiếm ai tin rằng FED sẽ tăng lãi suất trong tháng 4 sau khi ngân hàng trung ương này tuyên bố cắt giảm số lần tăng lãi suất từ 4 xuống 2 trong năm 2016.
Giám đốc chiến lược đầu tư Ed Yardeni của viện nghiên cứu Yardeni Research cho rằng sóng gió sẽ nổi lên nếu FED sớm tăng lãi suất. Thị trường chứng khoán Mỹ đang chịu thêm áp lực khi giá dầu đã giảm 7% trong 2 ngày 22-23/3. Chỉ số Dow Jones đã giảm 100 điểm trước khi hồi phục lại trong phiên ngày 24/3.
Không chỉ có ông Bullard có quan điểm này, Thống đốc FED San Francisco – ông John Williams – cho rằng tháng 4 hoặc tháng 6 là thời điểm đầy tiềm năng để có thể tăng lãi suất. Bên cạnh đó, Thống đốc FED Philadelphia cũng ủng hộ ý kiến sớm tăng lãi suất.
Những ý kiến này được đưa ra chỉ 1 tuần sau khi quyết định không tăng lãi suất của FED trong tháng 3 đã ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế. Tại cuộc họp diễn ra ngày 15-16/3, FOMC đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế từ 2,4% xuống 2,2% và hạ dự báo lạm phát từ 1,6% xuống 1,2% trong năm 2016.
Biến động của các thị trường chứng khoán, lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc và sự sụp giảm của giá dầu hồi đầu năm đã buộc FED phải xem lại kế hoạch tăng lãi suất đưa ra cuối năm trước. Mặc dù vậy, nền kinh tế Mỹ cũng có những tín hiệu tích cực khi số liệu việc làm mạnh mẽ và lạm phát đang hướng tới mức mục tiêu 2%.