IMF: Thế giới sẽ đón nhiều cú sốc kinh tế mới từ Trung Quốc
Lộ diện các ngân hàng lớn “góp mặt” trong Tài liệu Panama
Thu giữ hàng chục nghìn hộp sữa bột Similac giả tại Trung Quốc
Mạng 5G sắp được thương mại hóa
LG Display sẽ xây dựng dự án 1,5 tỷ USD tại KCN Tràng Duệ
Tin kinh tế đọc nhanh sáng 05-04-2016
- Cập nhật : 05/04/2016
Các đồng tiền châu Á tăng giá mạnh
Tuy nhiên, ngân hàng Goldman Sachs cho rằng các đồng tiền châu Á sẽ giảm giá trở lại và khuyến cáo bán ra các đồng tiền này...
Tháng 3 vừa qua, các đồng tiền châu Á đã có tháng tăng mạnh nhất trong hơn 7 năm. Tuy nhiên, ngân hàng Goldman Sachs cho rằng các đồng tiền châu Á sẽ giảm giá trở lại và khuyến cáo bán ra các đồng tiền này.
Theo tin từ Bloomberg, chiến lược gia Kamakshya Trivedi của Goldman Sachs dự báo các đồng tiền ở khu vực châu Á sẽ quay trở lại với xu hướng mất giá khi các động thái nới lỏng chính sách tiền tệ tiếp theo ở Trung Quốc và Nhật Bản có thể đẩy đồng Nhân dân tệ và đồng Yên xuống mức đáy từ ít nhất năm 2008.
Ông Trivedi là người vào tháng 11 năm ngoái đã đưa ra dự báo chính xác về sự phục hồi của các thị trường mới nổi vào đầu năm 2016.
Trong tháng 3, đồng Won Hàn Quốc là đồng tiền tăng giá mạnh nhất ở châu Á, với mức tăng 8,2%. Tiếp theo là đồng Ringgit của Malaysia với mức tăng 7,8%, mạnh nhất từ năm 1998. Một chỉ số là thước đo sức mạnh của 10 đồng tiền được giao dịch phổ biến ở châu Á, không bao gồm đồng Yên, tăng 3%.
“Đây là thời điểm tốt để bán khống (short) các đồng tiền châu Á, nhất là Won Hàn Quốc, Baht Thái Lan, Đôla Đài Loan, Nhân dân Tệ và Ringgit”, ông Trivdei, người hiện là chiến lược gia trưởng về vĩ mô các thị trường mới nổi của Goldman Sachs ở London, nhận định.
“Diễn biến tỷ giá đồng Nhân dân tệ có ảnh hưởng rất trực tiếp tới đồng tiền của các thị trường mới nổi ở khu vực châu Á. Chúng tôi dự báo các đồng tiền trong khu vực sẽ giảm giá”.
Tháng 3 vừa qua là tháng tăng giá mạnh nhất của các đồng tiền châu Á nói chung từ ít nhất năm 1999. Cơ sở cho sự tăng giá này là giá hàng hóa cơ bản phục hồi và đồng USD giảm giá trước những đồn đoán cho rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ hành động chậm trong vấn đềtăng lãi suất.
Tuy vậy, xuất khẩu của châu Á vẫn chưa hồi phục, dẫn tới khả năng một làn sóng phá giá tiền tệ mới ở khu vực trong bối cảnh đồng Nhân dân tệ giảm giá so với đồng tiền các đối tác thương mại của Trung Quốc và kỳ vọng gia tăng về việc Nhật Bản sắp có thêm biện pháp kích thích tăng trưởng bằng chính sách tiền tệ - ông Trivedi nói.
Chuyên gia này dự báo đồng Yên sẽ giảm giá 14% so với USD, về mức 130 Yên đổi 1 USD trong 12 tháng tới, mức thấp nhất kể từ năm 2002. Đồng Nhân dân tệ được dự báo giảm giá 7% so với đồng bạc xanh, về mức thấp nhất kể từ tháng 5/2008. Đồng Won sẽ mất giá 11% so với đồng USD trong 12 tháng, về mức gần 1.300 Won/USD - ông Trivedi nói.
Trong cuộc họp tháng 3 vừa qua, các nhà hoạch định chính sách của FED dự báo sẽ tăng lãi suất 2 lần trong năm nay, so với dự báo tăng 4 lần đưa ra hồi tháng 12/2015. Goldman Sachs dự báo FED sẽ tăng lãi suất 3 lần trong năm 2016.
Các hợp đồng tương lai ở Mỹ dự báo khả năng FED tăng lãi suất trong năm nay là 62%, trong đó kịch bản dễ xảy ra nhất là tăng lãi suất duy nhất 1 lần.
Tuy vậy, theo ông Trivdei, FED vẫn có khả năng tăng lãi suất nhanh chóng hơn nếu các số liệu kinh tế Mỹ khởi sắc đẩy đồng USD tăng giá, theo đó đảo ngược xu hướng tăng giá gần đây của đồng Nhân dân tệ và đồng Yên.
Từ đầu năm đến nay, Nhân dân tệ đã tăng giá 0,45% so với đồng USD. Tuy vậy, tỷ giá đồng tiền của Trung Quốc vẫn giảm nếu so với các đồng tiền khác trong khu vực.
Theo Goldman Sachs, cho dù đồng USD có tăng giá trở lại, thì Trung Quốc vẫn muốn duy trì sự mất giá của đồng Nhân dân tệ so với đồng tiền của các đối tác thương mại nhằm hỗ trợ lĩnh vực xuất khẩu. Ngoài ra, Trung Quốc cũng sẽ duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế chững lại.
“Điều đó đồng nghĩa với việc đồng Nhân dân tệ sẽ mất giá so với USD”, ông Trivedi nói. “Nếu đồng Nhân dân tệ tiếp tục giảm giá, thì các quốc gia khác có lĩnh vực xuất khẩu chịu ảnh hưởng tiêu cực sẽ phải đối mặt với áp lực phải giảm giá đồng tiền của mình để giữ năng lực cạnh tranh”.
Chính sách mới ảnh hưởng xấu đến kinh tế Thái Lan
Những biện pháp thâu tóm quyền hạn của chính quyền Thái Lan đặt ra nhiều nguy cơ đối với nền kinh tế nước này.
10 triệu xe tự hành ra đường năm 2020
Xe tự hành không còn là ý tưởng của tương lai, bởi các công ty như Mercedes, BMW và Tesla đã phát hành hoặc đơn giản là lên kế hoạch phát hành tính năng tự lái cho những chiếc xe, theo Business Insider.
Trong một báo cáo chuyên sâu từ BI Intelligence, các nhà phân tích đã dựa vào hiện trạng xe tự hành để cung cấp một phân tích sâu về sự tiến triển của xe tự hành trong vòng 5 năm tiếp theo. Các phân tích của BI Intelligence mô tả tác động kinh tế mà xe tự hành có thể nhận được cũng như những rào cản ngăn chặn xe tự hành khi gia nhập thị trường.
Dưới đây là những điểm nhấn trong báo cáo đến từ BI Intelligence liên quan đến thị trường xe tự hành từ nay đến năm 2020:
- Xe tự hành không phải là một công nghệ tự động mới trong tương lai, bởi trên thực tế đã có những chiếc xe với tính năng tự lái xuất hiện trên đường. BI Intelligence xác định xe tự hành là những chiếc xe có tính năng cho phép nó có thể tăng tốc, phanh cũng như khả năng tương tác với tài xế.
- Xe tự hành được chia thành hai loại khác nhau: Bán tự trị và tự chủ hoàn toàn. Một chiếc xe tự chủ hoàn toàn có thể lái từ điểm A đến B và có thể xử lý toàn bộ các tình huống trên đường mà không cần bất kỳ sự tương tác nào từ tài xế. Những chiếc xe như vậy sẽ ra mắt vào năm 2019.
- Đến năm 2020, dự đoán có khoảng 10 triệu ô tô là xe tự hành xuất hiện trên đường.
- Xe tự chủ hoàn toàn được chia ra thành hai loại: vận hành bởi tài xế và không có tài xế. Do liên quan đến các quy định và bảo hiểm mà chiếc xe tự chủ hoàn toàn được vận hành bởi tài xế sẽ được đưa ra thị trường trong vòng 5 năm tới, trong khi chiếc xe tự hành không có tài xế vẫn cần thêm một thời gian nữa.
- Lợi ích lớn nhất của xe tự hành đó là chúng đảm bảo đường giao thông an toàn hơn và cuộc sống người dân thuận tiện hơn. Tại Anh, một kết quả nghiên cứu ước tính rằng xe tự hành sẽ chỉ cướp đi khoảng 2.500 mạng người do tai nạn liên quan trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến 2030.
- Nhưng rào cản đối với xe tự hành vẫn còn rất đáng kể. Chi phí sản xuất cũng như các quy định cần phải được làm rõ dựa trên một số tính năng xe tự hành trước khi chúng đến tay đối tượng người tiêu dùng.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu kinh doanh gas phải có tối thiểu 40 đại lý
Kinh tế Hàn Quốc loạng choạng vì Trung Quốc
Hàn Quốc xưa nay là một quốc gia mạnh về xuất khẩu, vì thế sự loạng choạng gần đây của nước này thật đáng báo động: trong 14 tháng liên tiếp, giá trị xuất khẩu đã giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tháng 1.2016, xuất khẩu đã giảm sâu tới 18,8% về dưới 37 tỉ USD, mức giảm tồi tệ nhất kể từ năm 2009.
Các sản phẩm hóa dầu là mặt hàng xuất khẩu chính của Hàn Quốc, vì thế việc giá dầu thế giới thấp phần nào đã giải thích cho những con số này. Tuy nhiên, động cơ tăng trưởng lâu năm của Hàn Quốc như các nhà máy thép, xưởng đóng tàu, các nhà máy ôtô dường như cũng đang chạy hụt hơi.
Năm ngoái POSCO, một tập đoàn thép được thành lập vào năm 1968, đã báo cáo mức lỗ ròng hằng năm lần đầu tiên. Tập đoàn này đã bị hạ bệ trong bảng xếp hạng toàn cầu trước các đối thủ Trung Quốc và Nhật, khi từ nhà sản xuất thép lớn thứ 3 rớt xuống hạng 5 trong giai đoạn 2010-2014. Tháng 3 vừa qua, Daewo Shipbuilding & Marine Engineering (DSME), một trong những hãng đóng tàu lớn nhất thế giới, đã ghi nhận mức thâm hụt tồi tệ nhất trong lịch sử, khi lỗ hơn 5.000 tỉ won (4 tỉ USD) vào năm 2015. Doanh số bán đã giảm gần 25%. Tập đoàn này cũng đã sa thải 13.000 nhân công vào năm ngoái. Giờ DSME cho biết sẽ phải sa thải thêm 12.000 lao động nữa.
Hồi tháng 1 năm nay, hãng xe Hyundai Motor đã báo cáo mức giảm lợi nhuận trong quý thứ 8 liên tiếp. Công ty dự kiến lượng xe bán ra (đã bao gồm cả công ty trực thuộc Kia Motors) sẽ tăng nhẹ 1,5% trong năm nay. Đây là một con số rất khiêm tốn so với mức tăng trưởng tới 24% của năm 2010.
Hyundai Merchant Marine Co., hãng tàu lớn thứ 2 Hàn Quốc về doanh số bán, hồi tháng 1 vừa qua cũng cho biết sẽ bán đi công ty con trong lĩnh vực môi giới và thực hiện các biện pháp khác nhằm thu về dòng tiền trong bối cảnh ngành vận tải biển thế giới đang sa sút. Hyundai và đối thủ lớn hơn Hanjin Shipping Co. đều đã báo cáo các mức lỗ trong hoạt động kể từ năm 2011 và đang gánh những món nợ khổng lồ, một phần do nền kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng chậm lại.
Các doanh nghiệp Hàn Quốc đang bị tác động bởi sản lượng tăng lên từ phía các nhà sản xuất Trung Quốc và đồng won mạnh lên gần đây so với đồng yen Nhật, vốn đang có lợi cho các đối thủ Nhật. Xuất khẩu của Hàn Quốc tương đương khoảng 50% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này và 25% được xuất sang Trung Quốc.
Ryu Seung-sun, đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại Mirae Asset Securities, cho rằng vì Hàn Quốc xuất khẩu các phụ tùng cho ngành hàng tiêu dùng như màn hình và chip dùng trong điện thoại thông minh Trung Quốc, nên cũng dễ hiểu khi Hàn Quốc nằm trong số những nước đầu tiên bị tác động bởi đà tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc cũng như của nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, Park Sangin, chuyên gia kinh tế tại Đại học Quốc gia Seoul, cho rằng các yếu tố nội tại mới là “thủ phạm” lớn hơn, bởi sau cùng, nền kinh tế nước này đã trải qua cuộc suy thoái toàn cầu gần đây một cách tương đối dễ dàng.
Nhiều trong số các tập đoàn đa ngành của Hàn Quốc đi lên từ những ngành sản xuất mà đã thúc đẩy ngành công nghiệp của nước này cất cánh dưới thời của cựu Tổng thống Park Chung-hee cách đây hơn 40 năm. Và kết quả là ngày nay ngành sản xuất chiếm tới 1/3 GDP của Hàn Quốc. Qua nhiều năm, các tập đoàn đa ngành này, được gọi là chaebol, bành trướng vào nhiều lĩnh vực. 1/10 trong số đó làm ăn không hiệu quả, song vẫn sống vật vờ nhờ cơ chế sở hữu chéo.
Một số tập đoàn công nghiệp đã bắt đầu “xén bớt” các bộ phận kinh doanh không thuộc ngành nghề cốt lõi và làm ăn không hiệu quả. DSME, chẳng hạn, đang bán đi một công ty con điều hành các sân golf. Tuy nhiên, các tập đoàn khác vẫn tiếp tục con đường đa dạng hóa lĩnh vực hoạt động nhằm tìm kiếm những động cơ tăng trưởng mới. Khi mảng điện tử của Samsung mất thị phần vào tay các nhà sản xuất điện thoại thông minh tại Trung Quốc, tập đoàn này đã lấn sang lĩnh vực dược phẩm sinh học. Samsung BioLogics gần đây đã động thổ nhà máy sản xuất thứ 3 của mình mà khi đi vào hoạt động sẽ đưa nó trở thành nhà sản xuất lớn nhất thế giới về thuốc sinh học.
Các tập đoàn khác vẫn đang ăn nên làm ra mặc cho những loạng choạng nói chung gần đây. 7 trong số 10 mã cổ phiếu tốt nhất năm ngoái trong MSCI Asia Pacific Index, một chỉ số được theo dõi bởi các quỹ đầu tư lớn, là các cổ phiếu Hàn Quốc; trong số đó là các công ty ngành dược phẩm, mỹ phẩm và hàng không vũ trụ.
Nhóm cổ phiếu ngành truyền thông cũng sôi động trong thời gian gần đây nhờ sự thành công của CJ E&M, công ty con của CJ Corp, một chabeol khác của Hàn Quốc. Công ty con này đã trở thành một ngôi sao xuất khẩu với bộ phim bom tấn năm 2013 mang tên A Wedding Invitation được sản xuất nhắm đến thị trường Trung Quốc.
Vào tháng 11 năm ngoái, MSCI đã kết nạp CJ E&M vào chỉ số Hàn Quốc khi Công ty hất cẳng Daewoo Shipbuilding và Hyundai Merchant Marine, một hãng tàu đang gặp khó khăn. Khi các công ty truyền thông hưởng lợi từ sự phổ biến của các vở kịch, phim ảnh, nhạc Hàn trên đất nước Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á, ngày càng nhiều công ty bắt tay với các doanh nghiệp Trung Quốc để sản xuất hoặc quảng bá nội dung.
Một điều tốt lành là nền kinh tế Hàn Quốc đã đa dạng hóa vượt ra khỏi các ngành công nghiệp nặng. Nhưng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và thời trang cũng không tránh khỏi bị tác động bởi các xu hướng trên thế giới.
Tháng 2 vừa qua, hai nhà sản xuất mỹ phẩm lớn nhất của Hàn Quốc là Kolmar Korea và Cosmax đã báo cáo mức lợi nhuận ảm đạm do giờ cả hai đang phụ thuộc nhiều vào thị trường đang tăng trưởng chậm lại Trung Quốc. Thậm chí một danh mục xuất khẩu đa dạng hơn cũng không đủ để bảo vệ Hàn Quốc khỏi cơn gió rét đang thổi qua châu Á.