Chuyên gia ADB: Việt Nam nên rà soát việc ưu đãi thuế để cơ cấu nguồn thu; Rúp Nga giữ ngôi đồng tiền thể hiện tốt nhất thế giới; 9 tháng, tăng trưởng tín dụng tại TP.HCM đạt 13,5%; Rủi ro tiềm ẩn với cơn sốt đất ở Đồng Nai
Tin kinh tế đọc nhanh chiều 11-05-2016
- Cập nhật : 11/05/2016
Người Việt uống hơn một tỷ lít bia trong 4 tháng
Báo cáo các ngành công nghiệp của Bộ Công Thương cho biết, sản xuất bia của Việt Nam đạt 1,005 tỷ lít, tăng 5,8% so với cùng kỳ. Trong đó, riêng tháng 4, sản lượng ước đạt 206 triệu lít, bằng với cùng kỳ. Phần lớn bia được tiêu thụ tại Việt Nam đều được sản xuất trong nước, sản phẩm nhập khẩu chiếm tỷ trọng rất nhỏ."Sản xuất bia 4 tháng đầu năm ổn định, nhưng lợi nhuận của ngành đã sụt giảm do ảnh hưởng của chính sách thuế Tiêu thụ đặc biệt được áp dụng từ 1/1/2016", Bộ Công Thương đánh giá và cho biết tình hình tiêu thụ ngành đồ uống tăng 12,5% so với cùng kỳ.
Hiện thuế tiêu thụ đặc biệt với bia cũng đang ở mức 55% và trong lộ trình sẽ lên 65% vào năm 2018.
Trước đó, trao đổi với VnExpress, ông Lê Hồng Xanh - Thành viên HĐQT Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) nhận định, việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt 5% từ đầu năm 2016 đã gây ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp, khiến họ phải "đóng thêm" cả nghìn tỷ đồng tiền thuế trong năm 2016.
"Điều này sẽ ăn mòn lợi nhuận, giá bia sẽ tăng mạnh", ông Xanh cảnh báo và cho biết bản thân Sabeco cũng đang tính đến việc điều chỉnh giá.
Báo cáo của Hiệp hội Bia rượu Nước giải khát Việt Nam (VBA) cho biết, năm 2015, sản lượng sản xuất và tiêu thụ bia ở Việt Nam đạt 3,4 tỷ lít, tăng 10% so với năm trước và gần 41% so với 2010.
Trong đó, riêng Tổng công ty Bia rượu nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) đạt 1,5 tỷ lít, số còn lại thuộc về các doanh nghiệp khác. Theo đánh giá, Việt Nam nằm trong top các quốc gia uống bia nhiều nhất thế giới.
Người Việt mua hơn 4.500 xe Toyota trong tháng 4
Trong đó, doanh số của phân khúc xe du lịch đạt 2.116 xe, tăng trưởng 2% so với tháng 4/2015.
Dẫn đầu phân khúc xe du lịch vẫn là mẫu xe Vios đạt doanh số 1.195 xe. Vị trí thứ hai là mẫu xe Camry với 410 xe, nâng doanh số cộng dồn của mẫu xe này sau 1 năm ra mắt lên gần 6.000 chiếc.
Đối với phân khúc xe thương mại, tổng doanh số các mẫu xe đạt 2.421 xe, tăng gần 27% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó đáng chú ý là mẫu xe đa dụng Innova với doanh số 1.088 xe, Fortuner với 863 xe.
Trong tháng qua, hầu hết tất cả các mẫu xe do TMV nhập khẩu và phân phối (CBU) đều tăng trưởng ở mức cao, với tổng doanh số bán đạt 675 xe tăng 58% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, mẫu xe Yaris tiếp tục dẫn đầu phân khúc với doanh số bán với 205 xe, kế đến là Hilux đạt 181 xe, Land Prado đạt 121 xe và Land Cruiser đạt 100 xe và Hiace đạt 68 xe.
Cũng trong tháng 4,TMV cũng đã chào đón chiếc xe thứ 350.000 xuất xưởng tại nhà máy, nâng tổng doanh số bán của TMV trong hơn 20 năm qua đã lên đến con số xấp xỉ 373.000 xe.
Ngành thuế điều tra cá nhân, tổ chức trong Hồ sơ Panama
Nguồn tin từ Tổng cục Thuế cho VnExpress biết, ngành thuế vừa thành lập khẩn tiểu ban kiểm tra, điều tra về nghĩa vụ thuế đối với 189 cá nhân, tổ chức có tên trong Hồ sơ Panama mới được công bố rạng sáng 10/5.
Cơ quan thuế sẽ điều tra các cá nhân, tổ chức có tên trong Hồ sơ Panama để làm rõ có chuyện trốn thuế hay không.
Chiều cùng ngày, lãnh đạo Tổng cục Thuế đã có cuộc họp khẩn cấp với các Vụ chức năng và quyết định nghiên cứu, điều tra về khả năng trốn thuế hay không. Tiểu ban này gồm nhiều Vụ như Vụ Thanh tra, Vụ Tổ chức Cán bộ, Ban cải cách hiện đại hoá thủ tục thuế, Vụ Tuyên truyền...
Trên cơ sở kiểm tra dữ liệu nộp thuế cũng như đối chiếu với các quy định của Việt Nam, ngành thuế sẽ xác định cá nhân, tổ chức có dấu hiệu trốn thuế hay lách thuế...
Trước đó, danh tính 189 cá nhân, tổ chức Việt Nam có giao dịch qua 19 các công ty thành lập ở nước ngoài (offshore company) đã được Hiệp hội Các nhà báo Điều tra Quốc tế (ICIJ) công bố cùng toàn bộ Hồ sơ Panama. Trao đổi với VnEpress, nhiều doanh nhân nổi tiếng có tên trong danh sách này khẳng định họ hoạt động hợp pháp và không có hành vi trốn thuế. Bên cạnh đó, các cá nhân này cũng cho rằng, việc có tên trong danh sách sở dĩ do có đầu tư ra nước ngoài chứ không đồng nghĩa với việc họ trốn thuế hay vi phạm pháp luật.
"Offshore Company" thường liên quan đến các việc quản lý, đăng ký, hoạt động tại một quốc gia khác, nhằm đạt mục đích tài chính, luật pháp và lợi thuế.
Việc thành lập và sử dụng các công ty này không phải là phi pháp. Ví dụ, công ty A muốn chuyển sản xuất từ Mỹ sang một quốc gia nhỏ ở vùng Caribe. Mục đích của họ có thể rất hợp pháp. Đó là nếu chuyển sang nước ngoài, họ có thể trả thuế thấp hơn, và đầu tư số tiền tiết kiệm được vào phát triển doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ranh giới giữa được giảm thuế hợp pháp và trốn thuế rất khó phân định, đặc biệt trong trường hợp không thể tiếp cận đầy đủ thông tin tài chính. Các công ty nước ngoài trên giấy (offshore shell company) ra đời càng làm nhòe thêm ranh giới này.
Trong vụ Hồ sơ Panama, hãng luật Mossack Fonseca đã thành lập hơn 100.000 công ty nước ngoài, dưới dạng các quỹ (trust) hay công ty trên giấy (shell company), trong giai đoạn 2005–2015. Từ trụ sở ở Panama City, công ty này đã tạo ra hàng loạt công ty không rõ danh tính tại Panama, đảo Virgin (Anh) và nhiều thiên đường thuế khác. Những nơi này hấp dẫn nhà đầu tư nhờ thuế thấp và nhiều ưu đãi đặc biệt. Họ còn có quy định công bố thông tin rất lỏng lẻo, biến mình thành điểm đến lý tưởng cho các hoạt động ngầm, như né thuế hay rửa tiền.
Đằng sau hàng tỷ USD ngân hàng gửi ra nước ngoài
Việc ngân hàng phải đối mặt với "bẫy thanh khoản" ngoại tệ được các chuyên gia của Viện Nghiên cứu Kinh tế & Chính sách (VERP) đưa ra tại lễ công bố Báo cáo thường niên kinh tế 2016, diễn ra sáng 10/5 tại Hà Nội.
Dành một phần nhìn lại bối cảnh kinh tế, phát triển thị trường vốn, tiền tệ, tài sản... năm 2015, báo cáo được Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành - Viện trưởng VEPR trình bày đã đưa ra một số điểm đáng chú ý, trong đó cho rằng việc điều chỉnh chính sách tỷ giá ngoại hối, đặc biệt là việc “rút” lãi suất vay USD về 0% đã khiến hệ thống ngân hàng đối mặt với thách thức.
Quan điểm cho rằng ngân hàng gặp "bẫy thanh khoản" ngoại tệ tiếp nhận nhiều phản biện quyết liệt từ phía nhà băng. Ảnh: NDO
“Ngay cả khi lãi suất USD được hạ rất thấp, thậm chí về 0% thì người dân vẫn mua đôla hoặc doanh nghiệp vay tiền đồng, chứ không vay USD. Ngân hàng thương mại không thể cho vay đôla dù lãi suất đã hạ rất thấp... Cả hệ thống ngân hàng đối mặt với bẫy thanh khoản ngoại tệ”, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh.
Và hệ luỵ của “bẫy thanh khoản ngoại tệ” được đề cập chính là việc các nhà băng phải chuyển USD ra nước ngoài để thu lãi, trong khi chờ đợi phá giá. Đây cũng là lý giải cho sự xuất hiện dòng tiền gửi lớn bất thường trong quý III/2015. Theo chuyên gia này, lượng tiền gửi của các ngân hàng thương mại chuyển ra nước ngoài khi đó khoảng 7,3 tỷ USD, nếu tính gộp các khoản.
Lo lắng việc ngoại tệ “chảy” ra nước ngoài và mất tầm kiểm soát, song chuyên gia cũng trấn an: “Việt Nam kiểm soát tài khoản gửi ngoại tệ nên việc người Việt gửi tiền ra nước ngoài là không hề đơn giản. Bạn thử gửi 15 USD ra nước ngoài xem, không hề dễ dàng chút nào. Nhưng ở đây là tiền gửi của các ngân hàng tại nước ngoài để hưởng lãi suất chênh lệch chứ không phải người Việt hay đại gia nào. Các nhà băng lại có “cách” riêng của mình và hoạt động này nằm trong nghiệp vụ tài chính của ngân hàng”. Vị này cho biết tới quý IV/2015, dòng tiền này không “chảy” ra nước ngoài thêm do chính sách của Ngân hàng Nhà nước đã ổn định.
Cho rằng việc gọi hệ thống ngân hàng rơi vào “bẫy thanh khoản ngoại tệ” là chưa chính xác, Tiến sĩ Cấn Văn Lực – Phó tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam (BIDV) nhận định việc các ngân hàng Việt gửi 7,3 tỷ USD trong một quý là bình thường do nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, nền kinh tế vào cuối năm.
Ông Lực dẫn dụ mỗi năm, riêng “ông lớn” BIDV cần tới 15 tỷ USD để thanh toán xuất nhập khẩu, hay như Vietcombank cần tới 30 tỷ USD... Thêm vào đó, thời điểm quý III/2015, thị trường gặp phải rủi ro tỷ giá cao. “Chúng ta phải điều chỉnh chính sách tỷ giá tới 3 lần, và tâm lý người làm ngân hàng bao giờ cũng cần dự trữ ngoại tệ để đề phòng rủi ro tỷ giá”, ông Lực nói.
Còn chuyện gửi tiền ở nước ngoài, Phó tổng giám đốc BIDV cũng cho rằng, đây là tính toán kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. “Trong khi mức lãi trong nước chỉ 0,25% một năm, rồi giảm về 0% một năm, ở nước ngoài lãi suất 0,5-0,6% một năm... thì việc các ngân hàng chọn gửi ở nước ngoài là hết sức bình thường. Làm kinh doanh thì “nước chảy chỗ trũng”, lãi suất ở đâu cao hơn thì gửi”, ông Lực phản biện.
“Theo thống kê của chúng tôi, cuối năm 2015, các ngân hàng vẫn cho vay mạnh ngoại tệ chứ không phải “kìm” lại. Một đồng ngoại tệ huy động vẫn cho vay 1,2 đồng, trước khi đưa về trạng thái cân bằng theo quy định. Như vậy là họ cho vay rất tốt, chứ không phải rơi vào bẫy thanh khoản ngoại tệ như báo cáo đưa ra...”, Tiến sĩ Cấn Văn Lực chốt lại.
Ngoài câu chuyện tỷ giá, theo nhóm chuyên gia, dự trữ ngoại hối giảm trong năm 2015. Đặc biệt trong quý III, con số giảm lên tới 6,7 tỷ USD. Tỷ lệ dự trữ ngoại hối tính trên tháng nhập khẩu giảm xuống còn 2,1 tháng (dưới mức khuyến nghị của các tổ chức quốc tế là 3-4 tháng).
Tín dụng tăng cao và ổn định hơn năm 2014, đạt 17,3%. Huy động vốn thấp tạo ra chênh lệch cung – cầu, đã đẩy mặt bằng lãi suất tăng cả trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động tại các nhà băng thương mại. Năm 2015, cung tiền vẫn tăng chậm, chỉ đạt 16,23%. Tuy nhiên, mức tăng cao hơn các năm trước có thể gây sức ép lên lạm phát 2016. Lãi suất điều hành vẫn giữ ổn định trong năm và hoạt động hút ròng qua kênh tín phiếu diễn ra khá thường xuyên.
Trên cơ sở phân tích các dữ liệu của nền kinh tế năm 2015, các chuyên gia dự báo lạm phát năm 2016 sẽ tăng trở lại, ở mức 4-4,5% do tác động từ giá dầu, giá dịch vụ hành chính công... Tương ứng với mức lạm phát này là tăng trưởng GDP có thể đạt 6,05%. Ở kịch bản “rộng rãi” hơn, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh, tăng trưởng GDP năm 2016 có thể đạt khoảng 6,38%, nhưng khó đạt được 6,5% như mục tiêu đề ra của Quốc hội.
Để đạt được những con số ấn tượng này, chủ biên của báo cáo kiến nghị cần siết chặt kỷ luật tài khoá trong năm 2016 để giảm mức bội chi ngân sách, đồng thời cần có những giải pháp chính sách mạnh mẽ để cắt giảm chi tiêu thường xuyên, đẩy nhanh tiến độ thị trường hoá giá các loại hàng hoá, dịch vụ công.
Ngoài ra, cần kiểm soát tăng trưởng và chất lượng tín dụng, tránh việc duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian quá dài, dẫn tới việc hình thành bong bóng tài sản có tính chu kỳ.
Góp quan điểm về công cụ điều hành tín dụng bất động sản, ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright nhấn mạnh, nên kiểm soát vốn chảy vào thị trường bất động sản bằng chính sách lãi suất, chứ không phải chính sách hành chính. “Không nên dùng mệnh lệnh hành chính để kiểm toán tín dụng chảy vào bất động sản”, ông Thành lưu ý.
VAFI muốn Chính phủ bán hết cổ phần tại 2 hãng bia lớn
Hiệp hội các nhà tài chính Việt Nam (VAFI) vừa gửi văn bản tới tân Bộ Trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh về việc quản lý vốn Nhà nước tại 2 doanh nghiệp bia đầu ngành của Việt Nam là Sabeco và Habeco.
Theo đó, VAFI đề nghị Bộ Công thương nhanh chóng đề xuất Chính phủ cho phép bán toàn bộ vốn Nhà nước tại Sabeco (90%) và Habeco (82%) theo hình thức đấu giá công khai tại Sở giao dịch chứng khoán nhằm gia tăng tối đa giá trị tại 2 doanh nghiệp trên. Bộ không nên áp dụng việc mua bán thỏa thuận nhằm tránh tiêu cực, đồng thời, tạo sân chơi cho nhiều nhà đầu tư lớn tham gia cạnh tranh giá.
Tính toán của VAFI cho thấy, số tiền đấu giá thu được có thể tới 3 tỷ đôla. "Số tiền này là đủ để tiến hành ngay việc xây dựng tuyến đường sắt số 3, số 4 tại Thủ đô Hà Nội. Một khi Hà Nội có 4 tuyến đường sắt trong 7 năm nữa thì sẽ có nhiều điều kiện để phát triển nhanh hệ thống giao thông công cộng, giảm nhanh việc sử dụng hàng triệu xe máy và lúc đó Hà Nội sẽ xanh, sạch đẹp hơn nhiều so với hiện nay", VAFI giải thích.
Trước đó, hồi cuối năm 2014, Thai Beverage - công ty của tỷ phú Charoen Sirivadhanabhakdi, cũng nhiều lần trình bày với Chính phủ Việt Nam về mong muốn mua cổ phần trong Sabeco và định giá thương hiệu này ở mức 2 tỷ USD nhưng vẫn chưa được chấp thuận.
Còn tại Habeco, Tập đoàn Carlsberg Breweries A/S đang sở hữu từ 17,23% cổ phần và muốn tiếp tục mua thêm 13% cổ phần để nâng tỷ lệ sở hữu lên mức trên 30%. Tuy nhiên, lãnh đạo đơn vị này cũng cho biết đang chờ ý kiến chỉ đạo của Bộ Công Thương.
Hiện, Sabeco nắm giữ 46% thị phần bia tại thị trường Việt Nam, còn Habeco nắm giữ 17,3%.