Mỹ “ra đòn”, Nga có thể mất gần 1 tỷ USD/năm từ xuất khẩu hải sản
98% tài sản Phương Trang bị ngân hàng 'giam lỏng' là bất động sản
Gạo Việt vào siêu thị Singapore
Sẽ quyết liệt kiểm tra tín dụng đen tại TP.HCM
Không phải Adidas hay Nike, cổ phiếu này mới "phất" nhất mùa giải Euro
Tin kinh tế đọc nhanh trưa 12-06-2016
- Cập nhật : 12/06/2016
Tiềm năng phát triển của các nền kinh tế châu Á
Những năm gần đây, kinh tế thế giới trong đó có các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương chững lại đã khiến cho nhiều người đặt câu hỏi liệu các nền kinh tế châu Á có còn là "đầu tàu" của kinh tế thế giới.
Nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khó khăn, nhiều quốc gia đã phải điều chỉnh lại mục tiêu tăng trưởng và tập trung các nỗ lực để ứng phó với sự suy giảm tăng trưởng kinh tế. Nhiều ý kiến cho rằng suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ còn kéo dài trong nhiều năm tới. Tuy nhiên, ở châu Á, tăng trưởng kinh tế vẫn đạt bình quân 6,5% trong 5 năm qua và châu lục này vẫn chứng tỏ là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới. Có một số "điểm sáng" khiến các nền kinh tế châu Á vẫn sẽ giữ vai trò "đầu tàu" của kinh tế thế giới.
Thứ nhất, kinh tế Trung Quốc tiếp tục suy giảm trong những năm tới nhưng mức độ sẽ chậm lại. Bắc Kinh đang áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để duy trì tăng trưởng, trong đó tích cực đầu tư, đổi mới ngành công nghiệp để bù đắp những tác động từ sự suy giảm dân số trong độ tuổi lao động. Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc đang điều chỉnh cách thức tăng trưởng, từ việc phụ thuộc vào xuất khẩu sang kích thích tiêu dùng trong nước, đầu tư phát triển du lịch, dịch vụ để tạo ra tăng trưởng bền vững hơn.
Thứ hai, nhiều nền kinh tế châu Á khác tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Nhờ nỗ lực cải cách của các Chính phủ và trong thời gian tới, tăng trưởng kinh tế châu Á sẽ được tạo ra chủ yếu từ các nền kinh tế này. Ấn Độ là một ví dụ điển hình cho sự phát triển nhanh chóng. Quốc gia này đã ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ công nghệ thông tin. Hiện nay, New Delhi đang tích cực thúc đẩy sản xuất và liên kết trên toàn cầu. Indonesia cũng đang cố gắng thay đổi từ nền kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên sang ưu tiên tập trung cho sản xuất. Các quốc gia khác như Campuchia, Lào, Myanmar với tốc độ tăng trưởng bình quân 7-8%/năm cũng đang cố gắng để bắt kịp với các quốc gia khác trong ASEAN.
Thứ ba, khu vực châu Á đã có bài học kinh nghiệm xương máu từ cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1998 và có các biện pháp ngăn chặn, giảm thiểu tác động rủi ro tài chính và tăng cường khả năng phục hồi khi bị tác động từ bên ngoài. Các Chính phủ châu Á đang tích cực áp dụng các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường giám sát các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính. Hội nhập kinh tế khu vực ngày càng được đẩy mạnh, các thị trường kinh tế khu vực ngày càng gắn kết với nhau qua sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu, các hiệp định thương mại tự do, đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ tư, khu vực châu Á vẫn còn nhiều cơ hội, tiềm năng để bắt kịp với các nước tiên tiến. Trong năm 2015, thu nhập bình quân đầu người của châu Á đạt 4.796 USD, trong khi con số này của toàn thế giới là 10.139 USD, của các nước OECD là 35.768 USD. Hầu hết các nền kinh tế châu Á vẫn là nền kinh tế thu nhập thấp và trung bình thấp. Đáng chú ý, các quốc gia và vùng lãnh thổ như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Hong Kong đã tăng trưởng từ 7-9% trong những năm 1960-1980, trước khi trở thành các nền kinh tế công nghiệp mới.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là việc nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia đang nỗ lực cải cách thương mại và cơ chế đầu tư, tích cực ưu tiên quản lý kinh tế vĩ mô, tài chính công, quy chế tài chính và quản trị khu vực công… Những cải cách này sẽ tạo ra việc phân bổ nguồn lực hiệu quả, nâng cao hiệu quả quản lý, tăng cường khả năng ứng phó của nền kinh tế đối với những tác động tiêu cực từ bên ngoài và đặt nền móng cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
ADB dự báo với sự đổi mới mạnh mẽ, tăng trưởng của các nền kinh tế trong khu vực sẽ tăng thêm 1% trong 10 năm tới. Nếu tiến hành cải cách và thực thi các chính sách hiệu quả, khu vực này có thể và sẽ tiếp tục là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu. (HQ)
Hiệp hội Thép: Thời gian tới có thể áp thuế tự vệ chính thức để bảo vệ phôi thép
Xung quanh câu chuyện thị trường thép, phóng viên NDH đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA).
Thưa ông, báo cáo thị trường thép tháng 4 Hiệp hội Thép có nhận định giá thép có thể tăng trong tháng 5, vậy thực tế diễn biến thị trường thế nào?
Tháng 5 thị trường thép có điều chỉnh tăng lên nhưng cuối tháng 5 đầu tháng 6 có điều chỉnh giảm xuống theo giá nguyên liệu thép của thế giới điều chỉnh giảm.
Cụ thể, giá thép có điều chỉnh tăng 2 lần, tổng của hai lần điều chỉnh tăng 450 nghìn- 500 nghìn đồng/tấn. Đầu tháng 6 trên thị trường các công ty và đại lý đồng loạt giảm 200 nghìn đồng/tấn.
Nhưng tính tổng 2 lần điều chỉnh tăng và một lần điều chỉnh giảm thì giá thép của đầu tháng 6 vẫn tăng 250 nghìn đồng/tấn so với giá thép tháng 4.
Báo cáo của Bộ Công Thương mới đây cho thấy sản lượng thép các loại trong tháng 5 tăng, vậy tiêu thụ thép trên thị trường trong tháng 5 tăng không thưa ông?
Thép xây dựng tiêu thụ đỉnh cao là tháng 3 đạt 1.011 nghìn tấn. Nguyên nhân đạt con số cao như vậy do tháng 3 đúng vào mùa xây dựng, nhu cầu về thép tăng cao và quyết định áp thuế tự vệ tạm thời đối với phôi thép và thép dài (thép dây, thép cuộn) nhập khẩu của Bộ Công Thương ngày 7/3 khiến các doanh nghiệp đầu cơ ôm thép, lượng thép tiêu thụ tăng vọt đạt hơn 1 triệu tấn.
Nhưng đến tháng 4 thép xây dựng tiêu thụ giảm, còn 737 nghìn tấn, giảm 27% so với tháng 3.
Tháng 5 tiêu thụ thép xây dựng còn 593 nghìn tấn, so với tháng 3 giảm 41%.
Sở dĩ trong tháng 5 tiêu thụ thép xây dựng giảm sâu không phải do nhu cầu giảm mà do các đại lý đầu cơ ôm hàng từ tháng 3 bắt đầu xả hàng tồn.
Vậy, Hiệp hội Thép dự báo gì về thị trường trong tháng 6 thưa ông?
Nguồn cung tháng 6 ổn định, các nhà sản xuất trong nước đáp ứng đủ nhu cầu. Còn về giá thép trong tháng 6, còn phải đợi xu hướng giá nguyên liệu thép của thế giới như thế nào, nhưng chiều hướng giá thép thế giới sẽ giữ ngang hoặc giảm.
Ảnh hưởng của thép nhập khẩu từ Trung Quốc tới Việt Nam hiện nay thế nào thưa ông?
Hàng năm Việt Nam nhập khẩu lượng thép rất lớn trong đó trên 60% nhập từ Trung Quốc. Nhận thấy một số sản phẩm trong nước đã sản xuất được ví dụ như thép xây dựng, phôi thép sẽ bị ảnh hưởng của hàng nhập khẩu từ Trung Quốc nên Bộ Công Thương đã ra quyết định áp thuế tự vệ tạm thời đối với sản phẩm phôi thép nhập khẩu, thép dài nhập khẩu. Thời gian tới có thể áp thuế tự vệ chính thức để bảo vệ phôi thép, thép dài sản xuất trong nước.
Chúng ta đang tìm mọi cách giảm hạn chế của thép nhập khẩu từ Trung Quốc. Hiện nay thị trường sản xuất thép Trung Quốc đang ở mức dư thừa nguồn cung nhiều nên họ tìm nhiều cách xuất khẩu ra nước ngoài, trong đó có Việt Nam.
Từ khi có quyết định áp thuế tự vệ tạm thời của Bộ Công Thương, sản lượng thép nhập khẩu từ Trung Quốc có giảm không thưa ông?
Theo báo cáo tháng 4, nhập phôi thép từ Trung Quốc có giảm nhưng chủ yếu đó là các hợp đồng kí từ tháng 3 nên biểu hiện của việc giảm chưa rõ. Biểu rõ nhất là số liệu tháng 5 nhưng hiện Hiệp hội Thép chưa có số liệu cụ thể, nhưng chắc chắn là giảm.
Dự báo trong tháng 7 và tháng 8 tới thị trường thép sẽ thế nào, thưa ông?
Tháng 7 và tháng 8 thị trường thép chắc chắn sẽ ảm đạm vì nước ta bắt đầu vào mùa mưa bão, xây dựng ít, nhu cầu giảm. Đây cũng là thời điểm thị trường thép tiêu thụ chậm nhất trong năm.(NĐH)
Pinaco sẽ phát hành tăng vốn lên gấp 1,5 lần
Theo đó, dự kiến vốn điều lệ sau đợt phát hành này của Pinaco sẽ tăng gấp 1,5 lần so với mức vốn gần 310 tỷ đồng hiện nay.
Nguồn vốn cho đợt tăng vốn này lấy từ vốn chủ sở hữu của công ty tính đến ngày 31/12/2015 (theo báo cáo tài chính kiểm toán năm 2015).
Cổ phiếu phát hành để tăng vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu được làm tròn xuống hàng đơn vị, phần lẻ thập phân sẽ được hủy bỏ.
Theo thông tin từ công ty, trong quý I/2016, Pinaco đã đạt 594 tỷ đồng doanh thu và trên 30 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. Theo dự kiến, năm 2016, Công ty đặt mục tiêu doanh thu 2.440 tỉ đồng và lợi nhuận 130 tỉ đồng, chia tỉ lệ cổ tức 12%.
Trong năm 2015, với 5 thương hiệu cho 2 dòng sản phẩm pin và ắc quy Pinaco, Đồng Nai, JP, Sakura, Pin Con Ó, doanh thu của Pinaco đã đạt mức 2.260 tỉ đồng; lợi nhuận sau thuế tăng 22% so với năm 2014, đạt 90,5 tỉ đồng.
Năm 2015, doanh thu từ sản phẩm pin chỉ chiếm 12% trong cơ cấu doanh thu của Pinaco. Pinaco cho biết, hiện tại, các sản phẩm pin trong nước đã ở mức bão hòa và các sản phẩm của các hãng không có sự chênh lệch quá lớn về chất lượng, nên việc tăng thị phần là rất khó.
Tuy nhiên, dù chỉ sản xuất pin để đáp ứng nhu cầu nội địa nhưng năm ngoái, doanh thu từ pin đã tăng 7% so với năm 2014 và bắt đầu có lợi nhuận tốt khi Công ty tìm được nguồn nguyên liệu đầu vào với giá thành rẻ hơn, cộng với việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất để tiết kiệm chi phí. Trong khi đó, năm ngoái mảng ắc quy của Công ty đã đạt doanh thu 1.987 tỷ đồng, chiếm 88% tổng doanh thu. Mảng này cũng chiếm đến hơn 90% lợi nhuận.
Pinaco đang là nhà cung cấp cho các hãng xe lớn như Ford, Suzuki, Mercedes-Benz, Thaco, Hyundai, KIA, Mazda, Honda, Piaggio, Yamaha, Mekong Auto và Samco... Dòng ắc quy gắn máy kín (PTX) đã giúp Công ty giành lại thị phần đối với dòng ắc quy cho xe máy với tốc độ tăng trưởng cao hơn 27% so với năm trước; còn dòng ắc quy mới CMF có tốc độ tăng trưởng ấn tượng đến hơn 45% so với năm 2014.
Năm ngoái, pin và ắc quy của Pinaco đã được xuất khẩu sang 29 thị trường trên thế giới. Mặc dù doanh thu xuất khẩu không tăng đáng kể do biến động tỉ giá nhưng sản lượng xuất khẩu của doanh nghiệp này vẫn tiếp tục tăng 6%.
Hiện tại, Pinaco có trong tay 4 xí nghiệp với 3 xí nghiệp sản xuất ắc quy và 1 xí nghiệp sản xuất pin, bảo đảm cung cấp cho thị trường 1.600.000 kWh/năm và 250 triệu viên pin/năm. Bên cạnh đó, Pinaco đã xây dựng được hệ thống phân phối với hơn 140 nhà phân phối, đại lý, hơn 10.000 điểm bán bao phủ khắp 64 tỉnh thành trong cả nước. Hơn 1 thập niên cổ phần hóa (2004-2015) đã giúp Công ty tăng vốn điều lệ 2,6 lần đạt 310 tỉ đồng, doanh thu của tăng 4,4 lần, lợi nhuận tăng hơn 5 lần, nộp ngân sách nhà nước tăng hơn 4,4 lần.
WTO cảnh báo thiệt hại trong xuất khẩu của Anh khi rời khỏi EU
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vừa đưa ra cảnh báo rằng, xuất khẩu của Anh có nguy cơ phải chịu thêm 5,6 tỷ Bảng Anh (tương đương với 8,2 tỷ USD, 7,2 tỷ Euro) tiền thuế quan hàng năm nếu quốc gia này quyết định rời khỏi EU.
Trong một bài phát biểu mới đây tại London, Tổng giám đốc WTO, ông Roberto Azevedo đã thẳng thắn chia sẻ rằng: “ Nước Anh sẽ phải đàm phán thỏa thuận thương mại mới với khu vực EU và với từng thành viên trong số 58 quốc gia có giao dịch thương mại tự do với khối này. Điều này có thể sẽ kéo theo một loạt những cuộc đàm phán”.
Nếu điều đó xảy ra, thương mại vẫn sẽ tiếp tục, nhưng nó sẽ diễn ra trong những điều kiện không hề thuận lợi. Nhiều khả năng, thuế quan sẽ làm cho chi phí trong giao dịch thương mại quốc tế của Vương quốc Anh tăng cao, từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh trong các công ty xuất khẩu của nước này.
Cũng theo ông Azevedo, “các nhà xuất khẩu của Anh sẽ có nguy cơ phải “đội thêm” mức phí hàng năm lên tới 5,6 tỷ Bảng Anh nếu muốn tiếp tục xuất khẩu như hiện nay”.
Bên cạnh đó, Anh cũng cần phải đàm phán lại các điều khoản của thành viên WTO, song cũng sẽ không nhất thiết phải giữ lại đặc quyền dành cho các nước châu Âu khác đang là thành viên được bảo trợ trong khối EU.
Vương quốc Anh, là một quốc gia độc lập, riêng rẽ và tất nhiên vẫn sẽ là một thành viên của WTO, nhưng quốc gia này hiện đang không có điều khoản cụ thể trong WTO về thương mại hàng hóa và dịch vụ. Cụ thể, theo lý giải của Tổng giám đốc WTO, “nước Anh hiện chỉ có những cam kết như một thành viên của EU. Vì vậy, các điều khoản thương mại của EU không thể đơn giản là chỉ được cắt và gán vào cho nước Anh được".
Cuộc bỏ phiếu tới đây vào ngày 23-6 sẽ đem đến một thách thức “chưa từng có” đối với WTO, làm cho tổ chức này không thể lường trước được một kế hoạch rõ ràng, thời gian cụ thể nhằm giải quyết cho những vấn đề sắp xảy đến.
Các cuộc đàm phán chỉ có thể điều chỉnh một số điều khoản hiện hành của các nước thành viên, nhưng thường phải mất vài năm để hoàn tất - trong một số trường hợp còn mất tới 10 năm, hoặc lâu hơn nữa.
Trong khi đó, nhu cầu của Anh là mong muốn có một cuộc thảo luận nhanh chóng. Điều đó có thể sẽ làm cho nước này trở nên yếu thế hơn trên bàn đàm phán.
Tổng giám đốc WTO nhận xét: "Nước Anh có thể sẽ mất một khoảng thời gian khá dài để có thể trở lại một vị trí tương tự mà nước này đang nắm giữ như hiện nay".(HQ)