Úc cương quyết loại nhà thầu Trung Quốc
Ấn Độ áp dụng thuế chống bán phá giá sơ bộ cho CRC nhập từ 4 nước
Mía đường gặp khó với biến đổi khí hậu
Hội đồng Quản trị Masan mua lại 20 triệu cổ phiếu quỹ
Tin kinh tế đọc nhanh tối 18-08-2016
- Cập nhật : 18/08/2016
Mekong Capital tiếp tục thoái vốn MWG, có thể lãi gần 40 lần
Mekong Enterprise Fund II (MEF II), quỹ thuộc quản lý của Mekong Capital, thông báo đăng ký bán hơn 2,7 triệu cổ phiếu CTCP Đầu tư Thế giới Di động (MWG).
Giao dịch thoái vốn một phần này được thực hiện theo phương thức thỏa thuận từ ngày 19/8 đến ngày 17/9. Hiện tại, MEF II đang nắm 9,24% vốn MWG. Nếu giao dịch thành công, quỹ này sẽ giảm tỷ lệ sở hữu xuống còn 7,39%, tương đương hơn 10,8 triệu cổ phần.
Chốt phiên giao dịch hôm nay (17/8), giá cổ phiếu MWG tăng 9.000 đồng lên 154.000 đồng. Đây là mức giá cao nhất kể từ khi niêm yết của MWG. Với mức giá này, ước tính giá trị khoản thoái vốn của MEF II lên tới 415,8 tỷ đồng. So với giá khoảng 3.900 đồng / cổ phiếu lúc MEF II đầu tư vào MWG năm 2007, thì có thể nói họ sắp thu lợi nhuận gần 40 lần.
Trước đó, vào ngày 8/7, MEF II cũng đã bán thỏa thuận 2,5 triệu cổ phần MWG. Thời điểm thực hiện giao dịch này, giá cổ phiếu MWG ở mức 130.000 đồng. Giá trị khoản thoái vốn này của MEF II cũng lên tới khoảng 325 tỷ đồng.(NCĐT)
Sapphire rút toàn bộ vốn khỏi dự án Sanctuary Hồ Tràm
Công ty Sapphire hôm nay (17/8) thông báo rút tất cả 51% cổ phần khỏi dự án Sanctuary Hồ Tràm để tập trung hoàn toàn vào các hoạt động cốt lõi của Tập đoàn.
"Sau khi phân tích và xem xét cẩn thận các chiến lược, Hội đồng Quản trị của Sapphire quyết định rút cổ phần khỏi dự án Sanctuary Hồ Tràm," ông David Clarkin, đồng Giám đốc điều hành Sapphire, cho biết. "Việc rút cổ phần sẽ mang lại lợi ích tốt nhất cho các cổ đông, đồng thời phù hợp với chiến lược trọng tâm và dài hạn của Sapphire".
Thông báo của Sapphire không đề cập đến đối tác nhận chuyển nhượng cũng như giá trị khoản thoái vốn nói trên. Hồi tháng 2 vừa rồi, Sapphire cũng có quyết định rút cổ phần thiểu số của mình khỏi CTCP bất động sản Refico và dự án căn hộ City Garden. Lãnh đạo Sapphire lúc đó cho rằng thương vụ đầu tư sẽ có hiệu quả hơn nếu Sapphire là cổ đông quan trọng và có thể quản lý dự án.
Tuần trước, Sapphire cùng với tập đoàn Sakkara (Úc), Dragon Capital và GIC Singapore đã có những buổi họp quan trọng với lãnh đạo cấp cao TPHCM, bàn về việc tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các dự án bất động sản mới trong thành phố, như cải tạo, xây dựng lại các chung cư cũ, xuống cấp.
Được biết, sau các dự án đa chức năng như cao ốc President Place và Centrepoint, tháng 5 vừa qua, Sapphire đã ra mắt dự án biệt thự ven sông HOLM Residences nằm trên bán đảo Thảo Điền.
Sapphire hiện đang nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ bởi tập đoàn mẹ là Sakkara, tập đoàn được thành lập từ năm 1997, với kinh nghiệm qua 86 dự án, có trị giá hơn 2.5 tỷ USD.(NCĐT)
Tỷ phú Thái lên kế hoạch “hợp nhất” Metro Việt Nam và BigC Thái Lan
Cũng phải nói rõ, TCC chính là cổ đông lớn nhất của BigC Thái Lan, với 97,94% cổ phần, sau cuộc đua thâu tóm cổ phần đa số (58,6%) của Tập đoàn Casino (Pháp) ở BigC Thái Lan hồi tháng 2/2016 và mua lại 25% cổ phần của CP Group tại đây hồi tháng 5/2016. BigC hiện là một nhà bán lẻ thực phẩm và bất động sản thương mại hàng đầu ở Thái Lan, có mạng lưới rộng lớn với hơn 700 điểm kinh doanh, trong đó có 125 đại siêu thị...
Nếu cộng với những gì Mega Market Việt Nam (tên chính thức của Metro Việt Nam kể từ tháng 7/2016) đang có là 19 trung tâm bán sỉ đang hoạt động trên toàn quốc, 2 trung tâm trung chuyển, phân phối rau quả đặt tại Lâm Đồng và cá tươi tại Cần Thơ, 2 trung tâm chuyên văn phòng phẩm tại TP.HCM và Hà Nội, thì việc hợp nhất với BigC Thái Lan, theo tiết lộ của tỷ phú Charoen, chắc chắn sẽ tạo nên quyền lực mới của TCC tại khu vực, chứ không dừng lại ở thị trường Việt Nam hay Thái Lan.
Ở góc độ hàng hóa Việt Nam, đây là tin mừng, vì khi TCC đang nắm trong tay cả kênh bán sỉ và bán lẻ rộng khắp, cơ sở để thực hiện cam kết đưa hàng Việt tới các thị trường trong khu vực là chắc chắn, cho dù tỷ phú Thái Lan nói sẽ tiếp tục đàm phán với Big C Thái Lan.
Thực ra, kế hoạch với hàng Việt Nam mà ông Charoen nhắc tới đã được bắt đầu kể từ tháng 7/2016, khi hơn 100 tấn thanh long đã được TCC xuất sang phân phối trong hệ thống BigC Thái Lan. Đơn hàng này sẽ được tiếp tục với tần xuất 100 tấn thanh long/tháng. Hiện tại, TCC đang tìm kiếm các nhà cung cấp hàng nông sản khác như bơ, cam sành, vú sữa, khoai lang...
Ngoài ra, sau 8 tháng nắm quyền điều hành Metro, TCC đã đẩy mạnh các dự án phát triển nông nghiệp, gồm cả rau củ quả lẫn thủy hải sản, trong đó hỗ trợ nông dân từ giai đoạn chọn giống đến quy trình thu hoạch theo tiêu chuẩn VietGap. Hiện tại, Mega Market Việt Nam đã phát triển hơn 95 mặt hàng VietGap với sản lượng hơn 700 tấn/tháng, chiếm 70% lượng nông sản tại đây.
Đặc biệt, một vài thông tin cũng cho biết, Mega Market có thể sẽ đầu tư sang Thái Lan để mở kênh bán sỉ tại thị trường này. “Thời gian qua, chúng tôi đang nỗ lực để vực dậy Metro, vì trước đó, bên bán là Metro Cash & Carry của Đức không mặn mà điều hành, trong khi chúng tôi không thể tham gia sâu hơn do chưa hoàn tất thủ tục”, ông Charoen nói.
Trong con mắt của tỷ phú Charoen, Việt Nam tiếp tục là địa điểm được cân nhắc, thậm chí theo đúng lời của ông là “có sự quan tâm đặc biệt”. “Chúng tôi đến Việt Nam vào năm 1995, trải qua khủng hoảng năm 1997, nhưng vẫn cầm cự để không từ bỏ. Cho tới thời điểm này, với các kế hoạch mở rộng liên tục trong vài năm qua, chúng tôi tin tưởng vào quyết định của mình về sự phát triển của thị trường Việt Nam”, ông Charoen chia sẻ trong lần đến Việt Nam vào cuối tháng trước.
Ba lý do níu chân vị tỷ phú này tại Việt Nam, đó là người lao động cần cù, có nỗ lực phát triển bản thân; Chính phủ quan tâm tạo điều kiện để người dân phát triển và nguồn nước tốt cho phát triển nông nghiệp. Có thể đây là lý do khiến ông quyết định tiến hành các thủ tục mua lại Metro tại Việt Nam, thay vì ở nước ngoài theo đề xuất của bên bán. Cũng chính bởi vậy, ông cũng phản biện những lo ngại về việc Metro sẽ trở thành kênh cung cấp hàng hóa Thái Lan tại Việt Nam.
“Khi chúng tôi kinh doanh Metro, chúng tôi phải nghĩ tới chất lượng và chi phí khi lựa chọn nguồn hàng. Ví dụ, nếu mua ở Việt Nam, chúng tôi sẽ có lợi nhiều về chất lượng và giá cả hàng nông sản, mà nếu nhập thì chi phí cho hư hại sẽ lớn. Hơn thế, Metro là kênh bán buôn, tỷ lệ lợi nhuận thấp, nếu nhập khẩu nhiều, chi phí vận chuyển sẽ cao, làm giảm lợi nhuận. Là người kinh doanh nên chúng tôi phải cân nhắc, sẽ chỉ nhập những mặt hàng Việt Nam chưa có”, tỷ phú Charoen thẳng thắn chia sẻ quan điểm.
Đặc biệt, ông Charoen cũng đang hào hứng với kế hoạch bắt tay với các nhà sản xuất Việt Nam để mở rộng cả chủng loại và khối lượng hàng hóa xuất khẩu sang Thái Lan qua kênh của TCC. Vì ông tính, cả ông và các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đều có lợi. Trong kế hoạch này, ThaiBev - chuỗi nhà hàng sushi Nhật Bản Oishi - cũng đang được giao tìm các nhà hàng Việt Nam để đưa sang phát triển tại Thái Lan. (BĐT)
Sôi động các thương vụ M&A xi măng
Nếu có một ngành nào để Việt Nam tự hào tại Đông Nam Á, đó sẽ là xi măng với các nhà máy có tổng công suất lớn nhất trong khu vực.
Song cũng chính vì thế mà ngành xi măng tại Việt Nam gần như luôn trong tình trạng cung vượt cầu nhiều năm qua. Do đó, không có gì ngạc nhiên nếu các thương vụ M&A diễn ra liên tiếp trong ngành xi măng những năm gần đây. Đáng chú ý là người Thái đang bước chân nhiều hơn vào lĩnh vực này với tham vọng ngày càng rõ nét.
Bước chân người Thái
Là tập đoàn xi măng lớn thứ 2 tại Thái Lan, Siam City Cement (SCCC) thể hiện sự quan tâm mạnh mẽ đến thị trường Việt Nam với toan tính mua lại 65% cổ phần LafargeHolcim Việt Nam. Theo thông cáo của SCCC, thương vụ trị giá khoảng 479 triệu euro, tương đương 524 triệu USD. Thương vụ này còn chờ cơ quan quản lý và các cổ đông ở bên Thái thông qua, dự kiến sẽ hoàn thành trong quý IV sắp tới.
Trên thực tế, Tập đoàn Holcim cũng có cổ phần trong SCCC và mới thoái vốn (27,5%) hồi đầu năm ngoái. Các công ty vật liệu xây dựng như SCCC được thành lập ở Thái Lan từ rất sớm, khoảng năm 1969 và gần 8 năm sau đã niêm yết trên thị trường chứng khoán nước này. Thái Lan cũng được biết đến là một trong những quốc gia có cơ sở hạ tầng thuộc vào loại tốt trên thế giới. SCCC cũng là tập đoàn lớn của Thái Lan và bắt đầu bước chân sâu rộng hơn vào thị trường khu vực châu Á. Năm ngoái, SCCC đã mua lại công ty liên doanh cũng của Holcim ở Sri Lanka. Trong năm nay, SCCC đã thành lập liên doanh tại Campuchia và mua lại Cemex Cement ở Bangladesh, một tập đoàn chuyên vật liệu xây dựng của Mexico.
Trước SCCC, cũng đã có một tập đoàn Thái Lan khác nhòm ngó thị trường xi măng. Đó là thương vụ SCG Cement mua lại Nhà máy xi măng Bửu Long tại Đồng Nai vào năm 2012. SCG Cement thuộc Tập đoàn SCG, hiện đã đầu tư rất nhiều vào Việt Nam. Vào thời điểm 2012, SCG cũng mua lại 85% cổ phần của Prime Group (Việt Nam) hoạt động trong lĩnh vực sản xuất gạch ốp lát các loại. Hoặc gần đây là các thương vụ trong ngành nhựa như Nhựa Tín thành, Nhựa Tiền Phong, Nhựa Bình Minh. Có thể thấy các lĩnh vực mà SCG đầu tư đều là những sản phẩm thuộc phân khúc vật liệu xây dựng.
Hãy trở lại với LafargeHolcim Việt Nam, liên doanh này có gì hấp dẫn người Thái? Holcim Việt Nam là một liên doanh giữa Holcim (nắm giữ 65%) với Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam (Vicem). Cuối năm ngoái, Holcim Việt Nam đã sáp nhập với Lafarge Việt Nam (Pháp), sau khi hai tập đoàn mẹ cũng sáp nhập trên quy mô toàn cầu.
Nhờ thương vụ sáp nhập này, LafargeHolcim Việt Nam đã trở thành liên doanh có sản lượng và công suất lớn vượt trội so với các liên doanh khác với quy mô 6,3 triệu tấn/năm. Trước đó, theo khảo sát của StoxPlus (2014), thị phần của liên doanh này chỉ nhỉnh hơn liên doanh xếp thứ hai là Chinfon một chút.
Việc Holcim thoái vốn khỏi Việt Nam trên thực tế đã rộ lên từ đầu năm nay. Lý do thoái vốn một phần là tái cấu trúc tập đoàn đa quốc gia có quy mô sản xuất xi măng thiết kế lớn nhất thế giới, nhưng nhiều khả năng cũng là do tập đoàn này không còn nhìn thấy điểm sáng ở thị trường xi măng Việt Nam sau nhiều năm tham gia. Tuy nhiên, người Thái thì lại nghĩ khác. Theo công bố của SCCC, doanh thu của liên doanh LafargeHolcim năm 2015 là gần 5.340 tỉ đồng, tăng gần 19% so với năm trước đó, trong khi lợi nhuận ròng đạt 539 tỉ đồng, tăng hơn gấp 2 lần.
Doanh nghiệp Nội tăng tốc
Hai năm trở lại đây được xem là khoảng thời gian phục hồi đối với các doanh nghiệp ngành xi măng. Báo cáo của Vicem cho thấy lợi nhuận trước thuế của tổng công ty này đã tăng từ 617 tỉ đồng lên 1.507 tỉ đồng trong năm 2014 và 2.792 tỉ đồng trong năm 2015. Với quy mô 25.000 tỉ đồng doanh thu, Vicem là 1 trong 3 người chơi chủ đạo tại thị trường Việt Nam. Trong khi đó, dù có các nhà máy lớn nhất tại Việt Nam, song nhóm người chơi nước ngoài như LafargeHolcim và các liên doanh trong chuỗi xi măng tại Việt Nam chưa phải là tất cả (chiếm 28% thị phần vào năm 2014, theo khảo sát của StoxPlus), số còn lại chia đều cho Vicem và các doanh nghiệp tư nhân.
Ngành bất động sản phục hồi với nhiều dự án khởi động trở lại có thể là một nguyên nhân quan trọng giải thích cho động lực tăng trưởng của ngành vật liệu xây dựng, mà ở đó xi măng đóng vai trò không thể thiếu. Với mức tăng trưởng tốt như vậy, hoàn toàn dễ hiểu khi không chỉ các công ty nước ngoài tăng tốc mà các tập đoàn trong nước cũng không muốn chậm chân.
Có thể thấy hoạt động M&A tại thị trường xi măng đang sôi nổi hơn bao giờ hết. Ví dụ như Tập đoàn Vissai mua lại Xi măng Đồng Bành, Hà Nam, Đô Lương (đổi tên thành Sông Lam 1), dự án từ Tổng Công ty Xây lắp Dầu khí Việt Nam (đổi tên thành Sông Lam 2). Tập đoàn Xuân Thành mua Xi măng Minh Tâm, Xi măng Hoàng Long thâu tóm Xi măng Sài Sơn, Vicem nhận sáp nhập Xi măng Hạ Long, Sông Đà, Sông Thao. Trước đó, Viettel đã thâu tóm Xi măng Hạ Long và Xi măng Cẩm Phả.
Trong tương lai, các thương vụ M&A sẽ còn diễn ra sôi động hơn. Một phần là để đón đầu xu thế phục hồi của thị trường xây dựng, nhưng phần lớn là vì những vấn đề nội tại mà ngành này đã tạo ra trong quãng thời gian trước đây. Hiện ngành xi măng vẫn thừa cung rất lớn. Hơn nữa, trong thời gian tới, dự kiến còn có thêm nhiều dự án với tổng công suất lớn hơn 6 triệu tấn/năm được đưa vào hoạt động. Theo StoxPlus, dù nỗ lực xuất khẩu nhưng thị trường nội địa vẫn sẽ chứng kiến hiện tượng dư cung trong vòng 10 năm tới.
Nhiều năm gần đây, các doanh nghiệp xi măng luôn đặt mục tiêu xuất khẩu như là cách giải quyết cho bài toán thừa cung nhưng vẫn chưa đủ. Hệ quả là những dự án kém sẽ bị lọc dần khi được các tập đoàn trong nước mua lại. Điểm khác biệt giữa các thương vụ M&A trong và ngoài nước là các công ty nước ngoài bước chân vào những doanh nghiệp có thị phần chiếm lĩnh thị trường. Còn với những thương vụ M&A trong nước lại chủ yếu là sáp nhập các dự án nhỏ. Theo StoxPlus, hiện có 62 công ty xi măng với khoảng 100 nhà máy, 60% trong số đó là những dự án có quy mô công suất nhỏ (dưới 1 triệu tấn/năm).
Xi măng là một ngành có cấu trúc vốn lớn, vì vậy đòi hỏi đầu tư vào lĩnh vực xi măng nếu không là công ty chủ đạo của quốc gia, thì cũng phải là những tập đoàn lớn. Các dự án trước đây được lập ra để nhận ưu đãi từ địa phương. Song bài học cho thấy những “đại gia” xi măng nếu chọn sai công nghệ và không được quản trị tốt thì bước chân vào xi măng với những dự án nhỏ là một sai lầm. Bản thân các công ty xi măng nội địa cũng có EBITDA (lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao) thấp hơn các doanh nghiệp ngoại, theo StoxPlus. Đó là một khoảng cách mà các doanh nghiệp nội địa cần phải vượt qua.(NCĐT)