Hãng Moody's lạc quan về triển vọng kinh tế của nhóm G20
Giá gạo châu Á giảm do nhu cầu yếu, gạo Mỹ tăng mạnh nhất 5 năm
Tiêu thụ dầu thô Trung Quốc năm 2016 sẽ tăng 6,5% lên 583 triệu tấn
Cà phê châu Á: Mức chênh giá nới rộng, Việt Nam chào bán cà phê vụ mới
Tin kinh tế đọc nhanh chiều 19-08-2016
- Cập nhật : 19/08/2016
Giá chè Việt Nam xuất khẩu rẻ bằng một nửa thế giới
Đứng thứ 5 toàn cầu về lượng xuất khẩu song giá bán chè Việt Nam chỉ bằng 60% mức trung bình thế giới.
Trung tâm Thông tin công nghiệp và Thương mại (VITIC) vừa có báo cáo về một số loại hàng hóa xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm nay. Với mặt hàng chè, khối lượng xuất khẩu đạt 69.000 tấn, tăng gần 5% song giá trị lại giảm hơn 2% so với cùng kỳ. Nguyên nhân do giá chè xuất khẩu giảm tới 6,6%, chỉ đạt khoảng 1.160 USD một tấn.
Thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam là Pakisstan với 33,7% thị phần, giảm 11,1% về giá trị do giá giảm tới 9,8% so với cùng kỳ. Những thị trường có giá trị xuất khẩu tăng mạnh là Indonesia (gấp 2,1 lần), Malaysia (gấp 1,8 lần), Philippines (gấp 3,5 lần) và Trung Quốc (gấp 1,3 lần).
Theo VITIC, Việt Nam là nước xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới (sau Kenya, Sri Lanka, Trung Quốc, Ấn Độ), sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là chè đen, chè xanh, chè ô long, chè nhài, chè đen OTC… Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, chè Việt Nam đang có giá xuất khẩu thấp nhất, chỉ bằng 60-70% giá chè thế giới, thị trường lại chưa ổn định.
Nguyên nhân chính được cho là do mất an toàn thực phẩm và chất lượng chè chưa tốt, việc sử dụng thuốc trừ sâu bệnh cho chè ở nhiều nơi còn khá tuỳ tiện, không đảm bảo thời gian cách ly… còn phổ biến ở nhiều vùng chè.
Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn) cho biết, theo kết quả điều tra có tới 49% nông dân các vùng trồng chè được hỏi sử dụng thuốc với nồng độ cao hơn hướng dẫn, 64% nông dân sử dụng hỗn hợp 2 loại thuốc khi phun và có 14% nông dân trộn 3 loại thuốc khi phun trong khi bà con không hề biết việc phối trộn này sẽ làm tăng nồng độ thuốc lên nhiều lần.
Gần 50% nông dân phun trên 7 lần một vụ, gây lãng phí trong sử dụng thuốc, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng lớn tới thiên địch và mất an toàn thực phẩm cho sản phẩm chè.
Cùng với tình trạng sử dụng thuốc tùy tiện, nồng độ cao hơn quy định, việc dùng thuốc ngoài danh mục được phép sử dụng trên chè là nguyên nhân chính dư lượng thuốc trên sản phẩm chè cao như hiện nay. Đây là lý do khiến nhiều lô hàng chè xuất khẩu của Việt Nam bị đối tác cảnh báo hoặc trả về. Thời gian qua, nhiều lô hàng xuất khẩu lên tới hàng tấn bị trả về do hàm lượng tạp chất và các chất không đạt tiêu chuẩn.
Nhiều cơ sở chế biến chè không có vùng nguyên liệu, thường không quan tâm đến kiểm soát chặt chất lượng nguyên liệu đầu vào, đặc biệt là kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè, giá cả thu mua không hợp lý nên không khuyến khích người sản xuất coi trọng chất lượng nguyên liệu. Tình trạng thu gom nguyên liệu qua nhiều trung gian không những làm tăng giá mà còn kéo dài thời gian bảo quản, làm giảm chất lượng nguyên liệu.
VITIC cho rằng, để phát triển chè bền vững, Nhà nước, doanh nghiệp cần quan tâm đến khoa học, công nghệ. Các cơ sở chế biến chè phải tạo được vùng nguyên liệu ổn định, lâu dài. Đặc biệt là doanh nghiệp phải tự tổ chức dịch vụ bảo vệ thực vật tập trung thay thế việc sử dụng bảo vệ thực vật của các hộ nhận khoán và hộ nông dân trồng chè mới hy vọng kiểm soát được việc bảo vệ thực vật, tồn dư của các hoạt chất độc hại trong thuốc trên sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm và nâng cao năng suất, chất lượng chè.
Đồng thời, việc sản xuất, chế biến chè phải gắn với quy hoạch vùng sản xuất chè an toàn theo đúng định hướng quy hoạch sản xuất chè an toàn của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn.(vnexpress)
Lượng nhập khẩu lúa mì tăng mạnh
Theo số liệu thống kê, nhập khẩu lúa mì về Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2016 đạt 1.893.149 tấn, trị giá 407.122.497 USD, tăng 60,87% về lượng và tăng 26,91% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Trong 7 tháng đầu năm 2016 Việt Nam nhập khẩu lúa mì từ các thị trường là Ôxtraylia, Braxin, Hoa Kỳ và Canađa, Ucraine trong đó Ôxtraylia là thị trường thị trường lớn nhất cung cấp lúa mì cho Việt Nam, với lượng nhập 871.655 tấn lúa mì, trị giá 206.625.076 USD, tăng 20,68% về lượng và tăng 0,57% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Braxin là thị trường lớn thứ hai cung cấp lúa mì cho Việt Nam, với 333.623 tấn, trị giá 63.755.285 USD, tăng 8,45% về lượng và giảm 13,55% về trị giá.
Bộ nông nghiệp Mỹ (USDA) trong báo cáo tháng 8/2016 dự báo sản lượng lúa mì thế giới niên vụ 2016/17 sẽ đạt 743,44 triệu tấn.(vinanet)
Số liệu sơ bộ từ Tổng cục hải quan về nhập khẩu lúa mì 7 tháng năm 2016
Thị trường | 7Tháng/2016 | +/-(%) 7T/2016 so với 7T/2015 | ||
| Lượng | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá |
Tổng | 1.893.149 | 407.122.497 | +60,87 | +26,91 |
Ôxtraylia | 871.655 | 206.625.076 | +20,68 | +0,57 |
Braxin | 333.623 | 63.755.285 | +8,45 | -13,55 |
Hoa Kỳ | 91.795 | 24.134.818 | -26,35 | -27,08 |
Canađa | 33.644 | 8.954.892 | -76,74 | -76,98 |
Ucraine | 745 | 140.853 | -8,02 | -17,54 |
Nhập khẩu ô tô 7 tháng đầu năm trị giá trên 1,4 tỷ USD
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 7 tháng đầu năm 2016, lượng ôtô nguyên chiếc nhập về Việt Nam là 60.602 chiếc, với tổng giá trị trên 1,4 tỷ USD (giảm 6% về số lượng và giảm 17% về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2015).
Thái Lan tiếp tục là thị trường cung cấp nhiều nhất các loại ô tô cho Việt Nam, với 18.837 chiếc, trị giá 343,2 triệu USD, tiếp theo là thị trường Hàn Quốc với 11.497 chiếc, giá trị 187,1 triệu USD; Ấn Độ với 7.932 chiếc, trị giá 55,7 triệu USD; Trung Quốc 7.915 chiếc, trị giá 301,1 triệu USD; Nhật Bản 5.113 chiếc, trị giá 198,4 triệu USD.
Indonesia cũng đang nổi lên là một thị trường thuộc khu vực ASEAN có lượng ô tô xuất khẩu vào Việt Nam tăng mạnh với 1.374 chiếc, trị giá 17,8 triệu USD trong 7 tháng qua.
Giá xe nhập cảng bình quân trong 7 tháng đầu năm khoảng 511 triệu đồng (giá CIF, chưa bao gồm thuế, phí tại Việt Nam). Trong đó, xe nhập từ hai nước trong khu vực ASEAN có giá khá rẻ. Cụ thể, xe nhập từ Indonesia về cảng Việt Nam chỉ 289 triệu đồng, còn Thái Lan là 407 triệu đồng. Các yếu tố về giá xe và dòng xe là những nguyên nhân quan trọng khiến ô tô Thái Lan ngày càng được người Việt ưa chuộng. Nếu tính cả các khoản thuế phí tại Việt Nam, phần lớn xe Thái Lan nhập khẩu đều dưới 1 tỷ đồng.
Theo đánh giá, việc nhập khẩu ô tô từ Thái Lan và Indonesia đang chịu tác động mạnh mẽ từ lộ trình giảm thuế. Nhờ đó, thuế nhập khẩu ôtô từ khu vực ASEAN đã giảm từ 50% xuống 40%, sang năm 2017 sẽ giảm về mức 30% và đến năm 2018 sẽ chính thức giảm về 0%. Bên cạnh đó, các Hiệp định thương mại tự do khác như TPP, FTA Việt Nam - EU, Hàn Quốc… cũng đều cam kết xoá bỏ thuế quan đối với ôtô trong lộ trình từ 10 - 15 năm.
Hơn nữa, theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) mới được áp dụng từ ngày 1/7/2016, các dòng xe có dung tích dưới 1,5 lít được giảm thuế TTĐB từ 45% xuống 40% và xuống 35% trong năm 2017; dòng xe có dung tích từ 1,5 - 2 lít giảm về 40%. Dự báo, năm 2018, Việt Nam được nhận định sẽ trở thành thị trường lớn của các dòng ôtô giá rẻ từ Thái Lan với giá trung bình giảm tối đa 40%.
Số liệu thống kê sơ bộ của TCHQ về nhập khẩu ô tô 7 tháng đầu năm 2016 (Vinanet)
ĐVT: USD
Thị trường | 7T/2016 | +/-(%) 7T/2016 so với cùng kỳ | ||
Lượng (chiếc) | Trị giá (USD) | Lượng (chiếc) | Trị giá (USD) | |
Tổng cộng | 60.602 | 1.415.671.296 | -5,93 | -17,15 |
Thái Lan | 18.837 | 343.189.464 | +55,38 | +73,04 |
Hàn Quốc | 11.497 | 187.089.875 | -19,17 | -47,09 |
Án Độ | 7.932 | 55.695.559 | -7,18 | -1,48 |
Trung Quốc | 7.915 | 301.312.811 | -56,05 | -56,72 |
Nhật Bản | 5.113 | 198.399.707 | +47,60 | +38,34 |
Đức | 1.932 | 63.604.613 | +56,95 | +46,74 |
Hoa Kỳ | 1.559 | 57.223.275 | -15,82 | -20,90 |
Indonesia | 1.374 | 17.789.647 | -13,15 | +7,60 |
Nga | 1.045 | 61.721.189 | +358,33 | +512,16 |
Anh | 562 | 31.634.673 | -20,06 | +11,75 |
Canada | 191 | 6.548.768 | +148,05 | +188,28 |
Pháp | 24 | 3.333.976 | -76,24 | +13,13 |
Xuất khẩu rau quả “tăng tốc”
Bất chấp nhiều khó khăn về thiên tai dịch bệnh và thị trường, rau quả Việt lại tăng tốc xuất khẩu (XK) với kim ngạch tăng 47% so với cùng kỳ năm ngoái. Cùng với đó là những tín hiệu vui từ thị trường khi trái cây từng bước chinh phục được những thị trường khó tính.
Kim ngạch XK rau quả tăng 47%
Theo Cục Trồng trọt - Bộ NN&PTNT, khối lượng và kim ngạch XK rau quả đang có chiều hướng tăng nhanh. Tại thời điểm năm 2005, Việt Nam XK đến 36 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, với trên 235 triệu USD, thì năm 2015, đã XK đến hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ với kim ngạch đạt 1,838 tỷ USD, tăng 123% so với năm 2014, và tăng 782,13% so với năm 2005 (2005-2015), trong đó trái cây chiếm trên 70%.
Ông Hoàng Trung - Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ NN&PTNT) nhận định, hiện đầu ra của trái cây Việt vào những thị trường khó tính mà chúng ta đã khơi thông gồm Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Úc… tương đối ổn định.
Từ đầu năm đến nay, XK rau quả của Việt Nam đạt khoảng 1,4 tỷ USD tăng 47% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý là các thị trường đều tăng khá, trong đó, XK vào thị trường khó tính đạt gần 5.000 tấn quả tươi các loại tăng hơn 81% so với cùng kỳ năm ngoái (năm 2015 đạt hơn 1.000 tấn).
Các chuyên gia đánh giá, trong khi từ đầu năm đến nay, nhiều nông sản gặp khó về thị trường XK thì rau quả nói chung và trái cây nói riêng trở thành điểm sáng cho bức tranh XK nông sản Việt Nam khi kim ngạch XK tăng mạnh, đồng thời lại có thêm những tín hiệu vui về thị trường đối với trái vú sữa và xoài trên đất Mỹ khi mới đây Bộ Nông nghiệp Mỹ cho đăng Công báo Liên bang đề xuất xin ý kiến công chúng về việc sửa đổi các quy định cho phép trái vú sữa và trái xoài tươi của Việt Nam được nhập khẩu vào Mỹ.
Nhưng vẫn còn nhiều thách thức
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tích trong XK rau quả nói chung và trái cây nói riêng, nhưng theo ông Hoàng Trung thì trái cây của chúng ta xuất đi các thị trường này vẫn còn rất khiêm tốn. Nguyên nhân do, phần lớn các DN của chúng ta năng lực còn yếu, khi đối tác yêu cầu duy trì khối lượng lớn trong một thời gian dài thì thường không đáp ứng được.
TS. Nguyễn Hữu Đạt – Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho rằng, giá thành và chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nhóm quả tươi XK hiện nay của Việt Nam là thách thức lớn khi tham gia TPP.
Theo đó, trong số 12 nước tham gia TPP thì có 6 nước trong số này thuộc thị trường khó tính đối với việc nhập khẩu hoa quả tươi, nổi bật là Mỹ, Nhật, Úc, New Zealand. Yêu cầu rau quả xuất đi nhóm thị trường này phải là sản xuất theo VietGAP và tuân thủ không sử dụng một số nhóm thuốc trừ dịch hại nhất định.
Liên quan đến giá thành sản phẩm, ông Đạt phân tích, mức lợi nhuận bình quân cho DN XK bình quân cho cả năm chiếm khoảng 7% tổng giá thành. Tuy nhiên, hiện nay, khó khăn với các DN XK là việc, các DN xuất đi các thị trường khó tính thường phải ký phiếu cho cả năm theo một mức giá không đổi. Nhưng giá nguyên liệu quả mua của nông dân lại thay đổi theo mùa, theo thời điểm trong năm.
Điều này dẫn đến tình trạng chung trong nhiều năm qua, là sẽ có các thời điểm DN xuất quả có lời và có những thời điểm phải chịu lỗ. Ví dụ, việc XK nhãn đi Mỹ, nếu DN mua vào với giá thấp hơn 30.000 đồng/kg thì DN có lời khoảng 0,3 USD/kg nhưng nếu mua vào hơn 30.000 đồng/kg thì DN huề vốn hoặc lỗ vốn.
Cũng theo ông Đạt, 8 năm qua, chưa có lô XK nào vi phạm quy định về dịch hại kiểm dịch thực vật, tuy nhiên những vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn còn tương đối phổ biến.
Ông Đạt cho hay, khi có một lô hàng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, tỷ lệ kiểm tra hàng của DN sẽ bị tăng dần lên 50%, 100% thay vì mức kiểm tra 5% bình thường, dẫn đến việc hàng lấy ra trễ 4-5 ngày, kéo theo chất lượng giảm, có nguy cơ lỗ, mất hợp đồng số, giảm số lượng XK.
Một lô vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, DN có thể bị thiệt hại bằng 15 lô xuất thành công trước đó, chưa kể tiến độ xuất hàng sụt giảm và bị ảnh hưởng tiếp theo, vì vậy, cần hết sức lưu ý vấn đề này.
Để đẩy mạnh XK rau quả nói chung và trái cây Việt Nam sang các thị trường khó tính, ông Trung cho rằng, bên cạnh sự nỗ lực của cơ quan chức năng thì bản thân các DN cũng cần cố gắng tiếp cận với nhiều nguồn lực nhằm nâng cao sức cạnh tranh, tăng khả năng XK của DN với những thị trường đã mở. Đồng thời, các DN cần phải gắn kết với vùng nguyên liệu và vùng trồng, làm ăn theo hướng lâu dài và bền vững.
Theo các chuyên gia, việc khơi thông được những thị trường khó tính được đánh giá sẽ mang lại lợi ích kép khi vừa tránh cho việc trái cây của chúng ta phụ thuộc vào một thị trường, mà còn giúp cho người nông dân thay đổi thói quen, phương thức sản xuất, chuyển từ bán cái mình có sang bán những gì thị trường cần. Đây cũng là hướng đi tất yếu trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thị trường thế giới.(TBNH)