Đã đến lúc cần nới lỏng chính sách tiền tệ!
Tập đoàn Sanyo Homes Nhật Bản đầu tư phát triển dự án căn hộ tại TP.HCM
Xử phạt 15 “đại gia” kinh doanh dược phẩm vi phạm
Nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi Apple
Kinh tế Trung Quốc lại “trục trặc“
Tin kinh tế đọc nhanh sáng 15-05-2016
- Cập nhật : 15/05/2016
Ngân hàng lãi lớn từ mua bán ngoại tệ
Vietcombank lãi thuần quý I từ hoạt động kinh doanh ngoại hối đạt 564 tỉ đồng, tăng gần 20%; VietinBank đạt hơn 221 tỉ đồng, tăng gấp 6 lần; BIDV đạt 90 tỉ đồng, tăng gấp 4 lần; ACB tăng 42,5 tỉ đồng, gấp 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Ngân hàng Techcombank lãi gần 75 tỉ đồng so cùng kỳ năm ngoái bị lỗ 1,85 tỉ đồng và cả năm 2015 lỗ đến 192 tỉ đồng. Ở VIB, năm ngoái ngân hàng này kinh doanh ngoại hối lỗ hơn 20 tỉ đồng, nay đã lãi gần 26 tỉ đồng. Theo đó, lãi hoạt động kinh doanh ngoại hối đến từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ giao ngay chiếm phần lớn.
Phải chăng tỷ giá ổn định đã giúp kinh doanh ngoại hối của NH khởi sắc trở lại, thay vì chịu lỗ như 2 năm trước?
Thông thường lãi thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng đến từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ giao ngay, thu từ kinh doanh vàng, thu từ các hoạt động tài chính phái sinh sau khi trừ đi chi phí. Trong đó ở hầu hết các ngân hàng lãi từ hoạt động kinh doanh vàng đóng góp không đáng kể trong quý I/2016, kinh doanh vàng đã từng khiến nhiều ngân hàng chịu lỗ các năm 2012-2013.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh ngoại tệ giao ngay lại khá khởi sắc trong quý này. Theo cách hiểu phổ biến, đây là giao dịch mua bán ngoại tệ theo tỷ giá được xác định vào ngày giao dịch, việc thanh toán được thực hiện trong vòng 2 ngày làm việc kể từ ngày giao dịch. Một diễn biến khác là tỷ giá trong những tháng đầu năm 2016 khá ổn định. Tỷ giá trung tâm của NHNN có những phiên tăng mạnh nhưng có giảm và nhìn chung không có sự đột biến đáng kể.
Theo TS. Bùi Quang Tín, Trường Đại học ngân hàng TPHCM, một số ngân hàngTMCP như ACB, Vietcombank từng ghi nhận lợi nhuận từ kinh doanh ngoại hối tích cực ở những năm trước, khi hoạt động giao dịch mua bán quốc tế và trong nước (giao dịch 2 chiều) được phép.
Còn thời gian gần đây, kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng chủ yếu đến từ một số mảng: Dịch vụ môi giới mua bán ngoại tệ (mua khách hàng có nhu cầu bán và bán ngay cho người mua để hưởng chênh lệch và giữ nguyên trạng thái ngoại tệ); có thể lấy từ nguồn USD huy động từ khách hàng rồi bán lại cho người mua; giao dịch ngoại tệ phái sinh. Đây thực chất là các hợp đồng forward, tức các hợp đồng kỳ hạn với khách hàng, đặc biệt là với khách hàng xuất nhập khẩu.
Trong trường hợp giao dịch phái sinh, thông thường hiện nay các ngân hàng ký với các doanh nghiệp cần lượng ngoại tệ trong vòng 3-6 tháng tới để nhập hàng đề phòng trường hợp USD lên giá. Khi đó để duy trì trạng thái ngoại tệ, các ngân hàng lập tức đi mua lại ngoại tệ trên thị trường quốc tế hoặc các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam bằng các hợp đồng kỳ hạn để bù đắp lượng ngoại tệ bán ra. Bằng cách này, ngân hàng sẽ được hưởng chênh lệch tỷ giá khi mua bán các sản phẩm phái sinh.
Một yếu tố nữa giúp việc kinh doanh ngoại hối khởi sắc là do chính sách lãi suất 0% và sự linh hoạt trong điều hành tỷ giá liên ngân hàng góp phần giúp tỷ giá USD ổn định. Trong khi các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sợ tỷ giá tăng và có nhu cầu thực ngoại tệ nên buộc phải mua bảo hiểm rủi ro tỷ giá bằng cách mua các hợp đồng kỳ hạn từ ngân hàng.
Như vậy, tỷ giá ổn định trong thời gian qua cũng đã góp phần giúp các ngân hàng thu lợi từ hoạt động ngoại hối. Riêng hoạt động tự doanh sản phẩm phái sinh đóng góp rất lớn vào hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.
Doanh nghiệp dệt may còn thờ ơ với “tài sản vô hình”
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT)- “tài sản vô hình” ngày càng khẳng định là yếu tố cơ bản tạo nên giá trị và tính cạnh tranh của DN trên thị trường, đặc biệt là các DN trong ngành dệt may. Tuy nhiên, ít có DN “mặn mà” bảo vệ “tài sản vô hình” là thương hiệu, nhãn hiệu của mình để rồi khi “mất bò mới lo làm chuồng”.
Chưa chủ động
Theo ông Trần Việt Thanh, Thứ trưởng Bộ KH&CN kiêm Cục trưởng Cục SHTT, SHTT là công cụ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng. Tuy nhiên, việc sử dụng, khai thác cũng như định giá tài sản ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Nhiều DN trong ngành dệt may chưa thực sự nhận thức rõ vai trò của SHTT là một công cụ quan trọng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, nhiều cơ quan Nhà nước cũng chậm ban hành những cơ chế hỗ trợ như định giá, thương mại hóa loại sản phẩm này. Do đó, chưa đưa SHTT trở thành một ngành kinh tế, có đóng góp giá trị cao cho DN.
Số liệu đưa ra tại hội thảo “Sử dụng công cụ SHTT để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” diễn ra mới đây tại Hà Nội cho thấy, trong số 49 công ty thành viên của Tập đoàn Dệt may Việt Nam chỉ có 30 công ty đăng ký nhãn hiệu với tổng số nhãn hiệu được đăng ký là 266 và 19 công ty còn lại chưa đăng ký nhãn hiệu và không có bất cứ đăng ký bảo hộ nào về sáng chế và kiểu dáng công nghiệp. Các đơn vị đăng ký nhãn hiệu tập trung vào logo của DN, sản phẩm may mặc; hầu như không có đơn đăng ký nhãn hiệu của sợi và vải. Trong số các DN đã đăng ký nhãn hiệu, có số ít các DN có đơn đăng ký nhãn hiệu tại thị trường nước ngoài như Phong Phú, Việt Tiến, May 10…, còn lại các DN chủ yếu tập trung đăng ký nhãn hiệu tại thị trường trong nước.
Nói về thực tế này ông Lê Ngọc Lâm, Phó Cục trưởng Cục SHTT cho biết, các DN này thường chỉ chú trọng khâu sản xuất, còn khâu tiêu thụ phó mặc cho các đại lý, đối tác kinh doanh. Tranh chấp xảy ra khi các đại lý này đăng ký nhãn hiệu ở nước sở tại và coi như nhãn hiệu của mình. Trước đây, thông tin đại chúng đã nhiều lần đề cập đến các DN Việt Nam phải đối mặt với vấn đề bị các công ty nước ngoài ăn cắp hoặc nhái nhãn hiệu trên thị trường quốc tế, kéo theo đó là hàng loạt các vụ tranh chấp thương hiệu diễn ra như SABECO ở thị trường Singapore; Vinataba ở thị trường châu Á; Biti’s, kẹo dừa Bến Tre ở Trung Quốc; bánh phồng tôm Sa Giang ở Pháp; Trung Nguyên ở Nhật, Mỹ và đặc biệt là ở thị trường Mỹ với các thương hiệu lớn của Việt Nam như PetroVietNam, Vifon, Saigon Export, Việt Tiến... Mất nhãn hiệu không chỉ là mất đi thị trường, mất bạn hàng, mất thương hiệu mà sẽ thiệt hại, tốn kém rất lớn cho các DN.
Điều đáng báo động với nhiều DN nước ta, kể cả những DN lớn là vẫn còn “thờ ơ” với việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài. Theo con số thống kê của Cục SHTT, chỉ có khoảng 1.000 nhãn hiệu của các DN nước ta được đăng ký ở nước ngoài. Đây là con số quá nhỏ so với thực tế tình hình XK của nước ta hiện nay.
Ông Lại Tiến Mạnh, đại diện của Brand Finance tại Việt Nam cho rằng, “tài sản vô hình” tạo giá trị đáng kể cho DN. Tuy nhiên, nó là một khu vực ít được chú ý nhất trong quản lý. Chỉ có 38% DN Việt Nam quan tâm đến “tài sản vô hình”, điều này cho thấy thương hiệu cần phải được chú trọng nhiều hơn trong việc thúc đẩy hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh tổng thể.
Cần đầu tư, sáng tạo
“Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), muốn nâng cao năng lực sản xuất, giữ vững và mở rộng thị trường, thì một trong những công cụ quan trọng là SHTT. Dệt may cũng như các sản phẩm hàng hóa khác đều có thể bị làm giả, làm nhái ở trong nước và quốc tế. Vì vậy, SHTT là công cụ hữu dụng để bảo vệ cho DN. DN cần bảo hộ quyền SHTT cả ở trong nước và nước ngoài vì quyền SHTT chỉ có giá trị trong phạm vi lãnh thổ. Khi đăng ký bảo hộ SHTT tại các nước sở tại, nếu sản phẩm của DN bị xâm phạm, lúc đó, DN Việt Nam sẽ được hệ thống luật pháp của nước đó bảo vệ. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất vẫn là ý thức và sự hiểu biết của các DN. Khi DN nhận thức được tầm quan trọng của nhãn hiệu thì nhãn hiệu sẽ được đăng ký ở nước ngoài và ở những thị trường XK quan trọng”, ông Lâm nhấn mạnh.
Ông Lâm cũng cho rằng, để nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành dệt may, các DN trong ngành cần đầu tư cho nghiên cứu, đổi mới sáng tạo để thiết lập, bảo vệ và khai thác quyền SHTT. Cụ thể, các đối tượng SHTT cần tập trung vào ba yếu tố. Thứ nhất là kiểu dáng công nghiệp, DN cần nghiên cứu thị trường nhằm tạo ra các sản phẩm thời trang, mẫu vải mới… Đăng ký sở hữu công nghiệp để ngăn cấm người khác khai thác kiểu dáng công nghiệp. Thứ hai là sáng chế. Giải pháp sáng tạo mang tính kỹ thuật - được bảo hộ bởi Bằng độc quyền sáng chế là biện pháp công nghệ hữu hiệu để DN dệt may vươn lên trong quá trình cạnh tranh. Việc đăng ký và sử dụng sáng chế còn giúp thu hút các đối tác kinh doanh và các nhà đầu tư. Thứ ba, nhãn hiệu - là phương tiện điển hình nhất để phân biệt sản phẩm/ dịch vụ của một nhà sản xuất/ nhà cung cấp dịch vụ với các sản phẩm/ dịch vụ cùng loại của đối thủ cạnh tranh, đây là yếu tố đặc biệt quan trọng.
Theo ông Nguyễn Sỹ Cương, Trưởng ban Kỹ thuật Công nghệ- Tập đoàn Dệt may Việt Nam, để tạo điều kiện tốt nhất cho các DN trong ngành sử dụng công cụ SHTT, cơ quan quản lý cần rút ngắn thời gian chờ để đăng ký nhãn hiệu (hiện đang là 12 tháng), bởi sản phẩm dệt may mang tính thời trang. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ DN trong lĩnh vực SHTT. Đặc biệt, một mặt cần xử lý nghiêm các cơ sở sản xuất, tiêu thụ hàng giả, hàng nhái; mặt khác, truyền thông nâng cao nhận thức người tiêu dùng trong nhận diện hàng giả, hàng nhái…
Chia sẻ kinh nghiệm trong bảo vệ sản phẩm của mình, ông Thân Đức Việt, Phó Tổng giám đốc Công ty May 10 cho biết, hiện tại đơn vị đang đào tạo đội ngũ thiết kế nhiều kinh nghiệm, sáng tạo không ngừng và thay đổi liên tục mẫu mã nhằm đưa tốc độ sản phẩm ra thị trường nhanh nhất để các DN khác có nhái lại mẫu mã thì cũng đã cũ, lỗi mốt. Đồng thời, công ty cũng áp dụng công nghệ để truy suất sản phẩm bằng mã vạch, tem chống hàng giả, sợi chống hàng giả dệt vào nhãn sản phẩm để nhận biết hàng do mình sản xuất. Bởi ngoài việc người tiêu dùng cần thông minh hơn trong việc lựa chọn các sản phẩm thì chính các DN phải tự bảo vệ nhãn hiệu và thị trường của mình trước sự sôi động của nền kinh tế thế giới.
Nhà băng có chịu đánh đổi lợi nhuận để giảm lãi suất cho vay?
Một ngân hàng thương mại Việt Nam bị tấn công mạng
Những kẻ tội phạm từng đánh cắp 101 triệu USD từ Ngân hàng Trung ương Bangladesh có vẻ như vừa hoạt động một lần nữa.
Hôm 13.5, Hội Viễn thông tài chính Liên ngân hàng Thế giới (SWIFT), một tổ chức vận hành mạng thông tin liên kết hệ thống tài chính toàn cầu, cảnh báo khách hàng rằng vừa có ngân hàng thứ hai bị tấn công, và đây là “một phần của chiến dịch lớn và có độ thích nghi cao hơn”.
SWIFT cho hay dịch vụ mạng và tin nhắn cốt lõi của họ không bị ảnh hưởng. Họ cho rằng dưới đây là 4 cách mà hai cuộc tấn công nhà băng vừa rồi diễn ra: 1. Những kẻ tấn công dùng phần mềm độc hại để phá vỡ hệ thống an ninh địa phương của một ngân hàng; 2. Chúng có thông tin cho phép truy cập vào các mạng tin nhắn của SWIFT; 3. Tin nhắn lừa đảo được gửi qua mạng SWIFT để bắt đầu chuyển khoản tiền mặt; 4. Những kẻ tấn công giấu bằng chứng bằng cách loại bỏ một số dấu vết của thông điệp trên.
SWIFT viết trong một lá thư gửi đến khách hàng: “Những kẻ tấn công rõ ràng có kiến thức sâu và tốt để kiểm soát hoạt động cụ thể trong các ngân hàng mục tiêu - kiến thức đó có thể có được từ người trong cuộc, từ các vụ tấn công mạng, hoặc từ cả hai hình thức này”. Tổ chức không nêu tên cụ thể mục tiêu thứ nhì vừa bị tấn công hay đề cập đến khoản tiền mà nhà băng trên bị đánh cắp.
Các nhà nghiên cứu bảo mật từ nhà thầu quốc phòng Anh BAE Systems cho hay một ngân hàng thương mại ở Việt Nam từng là mục tiêu của phần mềm độc hại tương tự loại được sử dụng trong vụ trộm Ngân hàng Trung ương Bangladesh.
BAE Systems cho biết mã độc hại như trên cũng có thể được dùng trong cuộc tấn công vào hãng Sony năm 2014. Sau vụ hack vào Sony Pictures, tài liệu nội bộ từ studio, phim ảnh, các bản ghi nhớ, tiền lương nhân viên và các thông tin y tế bị rò rỉ.
“Những gì ban đầu dường như chỉ là sự cố độc lập tại một ngân hàng châu Á hóa ra là một phần của chiến dịch rộng lớn hơn”, các nhà nghiên cứu BAE Systems viết.
SWIFT thúc giục các khách hàng nhanh chóng tăng cường an ninh cho hệ thống phần mềm riêng của họ. Giới điều tra hiện vẫn chưa xác định bất kỳ nghi phạm nào trong vụ trộm từ Ngân hàng Trung ương Bangladesh.
Hồi đầu tháng 2, bọn tội phạm thực hiện được năm đợt chuyển tiền từ tài khoản Ngân hàng Trung ương Bangladesh tại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) ở New York. Yêu cầu chuyển tiền trông như thật khi xuất phát từ một máy chủ Bangladesh. Những tên trộm cung cấp mã ngân hàng chính xác để thực hiện các đợt chuyển khoản.
Hầu hết số tiền bị đánh cắp đến các tài khoản nằm ở Philippines. Gần 20 triệu USD khác, số tiền nay đã được lấy lại, thì đến Sri Lanka. Nhóm tội phạm trên cố gắng đánh cắp thêm 850 triệu USD nữa nhưng yêu cầu chuyển khoản bị Fed New York từ chối.
Đại diện Fed New York, Ngân hàng Trung ương Bangladesh và SWIFT gặp gỡ hồi đầu tuần này ở Thụy Sĩ để bàn về vụ trộm trên. Các bên đồng ý hợp tác để thu hồi số tiền bị trộm và đưa nhóm tội phạm ra ánh sáng.
Với FED, chỉ có lịch sử và thị trường là quan trọng
Hãy quên những cuộc tranh luận của các vị quan chức hàng đầu của FED trong thời gian gần đây đi. Ủy ban Thị trưởng Mở Liên bang (FOMC) và chủ tịch Janet Yellen sẽ chỉ tăng lãi suất khi các thị trường tài chính cho thấy sự sẵn sàng cần thiết.
Theo nghiên cứu mới đây của Goldman Sachs, trong 25 năm qua, có tới 90% số lần FED tăng lãi suất trùng hợp với dự báo của thị trường (tỷ lệ dự báo > 70%).
Nếu lịch sử lập lại, chúng ta sẽ không thể thấy FED tăng lãi suất trong cuộc họp tháng 6 và tháng 7 sắp tới. Do đó, những tuyên bố gần đầy của các quan chức FED về nền kinh tế đã sẵn sàng cho sự thay đổi mùa hè này sẽ không có nhiều ảnh hưởng tới quyết định tăng lãi suất trong thời gian tới.
Nhà kinh tế Daan Struyven của Goldman Sachs cho rằng FED sẽ có một quyết định lịch sử nếu tăng lãi suất trong bối cảnh dự báo thị trường ở mức thấp, các số liệu yếu và hệ thống chính sách tiền tệ bất ổn như hiện nay.
Theo công cụ CME's Fed Watch, tính toán khả năng tăng lãi suất của FED trong tương lai, phải cho tới cuộc họp diễn ra vào tháng 12 năm nay, khả năng FED nâng lãi suất mới cao hơn 50%. Bên cạnh đó, những nhà đầu tư Phố Wall cũng đã không còn hy vọng vào việc FED sẽ tăng lãi suất nhiều lần trong năm 2016.
Goldman Sachs mới đây cũng đã liên tiếp thay đổi dự báo về số lần tăng lãi suất của FED trong năm 2016. Ban đầu, ngân hàng này dự báo sẽ tăng 4 lần nhưng sau đó giảm dần còn 3 lần và mới nhất là 2 lần. Nguyên nhân khiến Goldman Sachs thay đổi quan điểm là bởi lạm phát vẫn tiếp tục duy trì ở mức thấp và thị trường lao động có dấu hiệu nguội lại.
Một nhà kinh tế tại Goldman khác – ông Zach Pandl – cho rằng sự bất ổn của chính sách tiền tệ nhiều khả năng vẫn sẽ duy trì ở mức cao trong thời điểm này. Do đó, Goldman Sachs đã xem xét lại các dự báo ngắn hạn của mình về vấn đề tăng lãi suất của FED.
Trong tuần trước, gã khổng lồ BlackRock thậm chí đã dự báo rằng sẽ không có đợt tăng lãi suất nào trong năm 2016, trong khi đó ngân hàng Bank of America Merrill Lynch lạc quan hơn một chút với dự báo 1 lần tăng lãi suất vào tháng 12.