Lộ diện nhà đầu tư ngoại muốn làm đường sắt đô thị Hà Nội; Vinachem 'cầu cứu' Chính phủ khoản vay Trung Quốc 250 triệu USD; Vải thiều Việt bán 200.000 đồng một kg tại Thái Lan; 700 đồng một lá tía tô xuất sang Nhật
Tin kinh tế đọc nhanh tối 02-07-2017
- Cập nhật : 02/07/2017
Doanh nghiệp sữa được tự xác định giá bán lẻ
Thương nhân sản xuất, nhập khẩu có quyền tự xác định giá bán lẻ khuyến nghị đối với sản phẩm sữa và thực phẩm chức năng đến người tiêu dùng cuối cùng.
Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 08/2017 quy định về đăng ký giá, kê khai giá sữa và thực phẩm chức năng dành cho trẻ em dưới sáu tuổi. Thông tư có hiệu lực từ ngày 10-8-2017.
Theo đó, thương nhân sản xuất, nhập khẩu có quyền tự xác định giá bán lẻ khuyến nghị đối với sản phẩm sữa và thực phẩm chức năng đến người tiêu dùng cuối cùng theo quy định của pháp luật hiện hành về giá.
Thương nhân thông báo điều chỉnh giá theo mẫu thay cho kê khai giá khi điều chỉnh giá trong phạm vi 5% so với mức giá đã kê khai hoặc thông báo liền kề trước đó. Trường hợp lũy kế các lần thông báo điều chỉnh vượt mức 5% so với mức giá đã kê khai hoặc thông báo lần liền kề trước đó, thương nhân phải thực hiện kê khai giá theo quy định tại thông tư này.
Thương nhân sản xuất, nhập khẩu sữa đăng ký giá bán lẻ khuyến nghị và có trách nhiệm thông báo kịp thời mức giá bán lẻ khuyến nghị đã đăng ký đối với hệ thống các thương nhân phân phối sản phẩm của mình.
Theo thông tư này, mức giá bán lẻ của các thương nhân phải được niêm yết và không được vượt quá mức giá bán lẻ khuyến nghị đã đăng ký. Mức giá bán lẻ khuyến nghị đã đăng ký là cơ sở để cơ quan tiếp nhận đăng ký giá và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về giá và công bố cho người tiêu dùng. Thương nhân sản xuất, nhập khẩu sữa có thể thực hiện đăng ký các mức giá bán lẻ khuyến nghị phù hợp với từng khu vực địa lý nhất định.(PLO)
-------------------------
Ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn
Đại diện Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết: Thời gian tới, ngành ngân hàng sẽ hỗ trợ để tiếp tục giảm lãi suất cho vay, chú trọng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), doanh nghiệp khởi nghiệp.
Theo Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay diễn biến ổn định từ năm 2016 đến nay, đặc biệt từ cuối tháng 9/2016, một số tổ chức tín dụng (TCTD) đã giảm 0,3 - 0,5%/năm lãi suất huy động, giảm 0,5 - 1%/năm lãi suất cho vay đối với sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì mức lãi suất này vẫn ở mức cao.
Vì vậy, từ nay tới cuối năm, ngành ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh triển khai có hiệu quả các chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên cả nước với nhiều giải pháp hỗ trợ trực tiếp như tăng cường cho vay mới, cơ cấu lại nợ vay, giảm lãi suất cho vay, đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, xây dựng các chương trình tín dụng cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, quy trình, thủ tục thuận tiện, minh bạch.
“NHNN sẽ tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp; đồng thời nghiên cứu, chỉnh sửa cơ chế chính sách đảm bảo phù hợp với thực tiễn, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển”, Thống đốc Lê Minh Hưng nói.
Chia sẻ với phóng viên báo Tin Tức, bà Nguyễn Quỳnh Nga, Phó giám đốc Khối SME Ngân hàng An Bình (ABBank) cho biết: Để hỗ trợ doanh nghiệp, hôm nay (ngày 30/6), ABBank đã ra mắt dịch vụ ngân hàng chuyên biệt cho DNVVN và phát triển danh mục 7 sản phẩm về cho vay thế chấp và cho vay tín chấp.
Theo đó, các sản phẩm được nghiên cứu dựa trên chính các nguyên nhân khiến DNVVN tại Việt Nam không tiếp cận được vốn, ngoài ra, các sản phẩm cho vay của ngân hàng đã được tinh chỉnh theo nhu cầu và đặc thù kinh doanh của từng đối tượng doanh nghiệp. Nổi bật trong danh mục 7 sản phẩm chuyên biệt là SME Easy và SME Easy Plus. Đây là hai sản phẩm cho vay kinh doanh tín chấp chuyên biệt dành riêng cho DNVVN nói chung và doanh nghiệp siêu nhỏ nói riêng. Điều đặc biệt từ hai sản phẩm này là không yêu cầu tài sản đảm bảo và doanh nghiệp có thể vay tối đa 3 tỷ đồng cho các mục đích vay đa dạng.
Theo bà Nga, đây là bước tiếp cận thích hợp của ngân hàng để giải quyết bài toán khó của cộng đồng doanh nghiệp về vốn. Việc có được một nguồn tín dụng không cần thế chấp tài sản, có thể sử dụng bất kỳ lúc nào có lợi ích rất lớn đối với doanh nghiệp.
Ngoài ra, ABBank còn triển khai các chương trình ưu đãi lãi suất cực kỳ hấp dẫn khi khách hàng sử dụng 1 trong số 7 sản phẩm mới gồm chương trình tiếp sức DNVVN “mừng sinh nhật vàng, vay vốn dễ dàng”giảm đến 2.4% lãi suất cho vay và miễn giảm rất nhiều loại phí giao dịch; chương trình “Mua xe liền tay - Giảm ngay lãi suất” áp dụng chỉ từ 6.49% lãi suất cho vay mua ô tô, chương trình “SME tăng tốc” lãi suất chỉ từ 6,98 % đối với VND và 2,8% đối với USD đối với phân khúc DNVVN,
Phía Ngân hàng VPBank chia sẻ: Dự kiến ngày 8/7 ở Hà Nội và ngày 15/7 tại TP Hồ Chí Minh, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và VPBank sẽ tổ chức “Ngày hội kết nối doanh nghiệp” nhằm giải quyết một phần khó khăn về vốn; đồng thời chia sẻ những kiến thức nghiệp vụ để doanh nghiệp dễ dàng nâng cao vị thế trong thị trường ngành.
Còn tại Ngân hàng TMCP Quốc Dân NCB cũng đang triển khai chương trình ưu đãi dành cho khách hàng vay mua xe với lãi suất vay hấp dẫn chỉ từ 6,8%/năm trong 8 tháng đầu hoặc 7,99%/năm trong 12 tháng đầu. Những tháng tiếp theo được áp dụng theo mức lãi suất gửi tiết kiệm hiện hành cùng biên độ cạnh tranh dành cho khách hàng. Ngoài ra, NCB hỗ trợ cho vay tới 85% giá trị chiếc xe với thời gian vay lên tới 7 năm. Khách hàng có thể dùng chính chiếc xe mua để làm tài sản thế chấp khi vay vốn.
“NCB cam kết trả lời đề nghị vay vốn trong thời gian chỉ 4 giờ sau khi khách hàng nộp đầy đủ hồ sơ vay vốn. Thời gian giải ngân cũng rất nhanh chóng sau khi khách hàng đã được phê duyệt khoản vay”, đại diện NCB nói.(Baotintuc)
-----------------------------
Huy động vàng trong dân: Trở ngại từ thuế suất xuất khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu vàng để tái tạo ngoại tệ cũng là một trong những giải pháp khả thi để chuyển hóa vàng trong dân cho đầu tư phát triển kinh tế của đất nước.
Thế nhưng, thuế suất xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ có hàm lượng từ 95% trở lên phải chịu thuế suất 2% đang là một trong những nguyên nhân chính cản trở hoạt động xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ của các DN sản xuất, kinh doanh vàng Việt Nam.
Nguồn lực vàng trong dân còn lớn
Trong nhiều năm qua, VN đã chi ra một lượng ngoại tệ lớn để nhập khẩu vàng, trong khi xuất khẩu kim loại quý này chẳng đáng bao nhiêu. Do vậy, lượng vàng trong dân hiện nay còn rất lớn, ước tính khoảng 400-500 tấn. Thậm chí, Hội đồng vàng Thế giới (WGC) còn ước tính lượng vàng trong dân VN khoảng hơn 1.000 tấn.
Trước bối cảnh này, Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nghiên cứu thực hiện các giải pháp huy động nguồn lực vàng trong dân phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhưng đến nay chưa có giải pháp nào được đưa ra.
Tại Nghị quyết số 01/NĐ-CP ngày 01/01/2017 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2017, Chính phủ lại tiếp tục yêu cầu NHNN nghiên cứu có lộ trình, giải pháp huy động nguồn vàng trong dân phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Và kết luận phần thảo luận kinh tế - xã hội tại phiên họp Chính phủ tháng 5/2017, Thủ tướng Chính phủ cũng đã yêu cầu NHNN bên cạnh bảo đảm tăng trưởng tín dụng vượt kế hoạch (18%) với cơ cấu hợp lý, thì cần xem xét, nghiên cứu việc huy động phù hợp nguồn vốn vàng, ngoại tệ trong dân.
Trong khi đó, huy động vàng trong dân luôn ẩn chứa rất nhiều rủi ro do giá vàng biến động liên tục, khó lường. Bởi vậy, đến nay NHNN vẫn giữ quan điểm huy động vàng trong dân thông qua quan hệ mua bán. Tuy nhiên, với quan điểm đó, thì lượng vàng trong dân, nhất là dưới dạng vàng miếng, mới chỉ chạy tuần hoàn giữa DN và người dân, chứ chưa được sử dụng làm vàng nguyên liệu cho sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. Bởi vì, giá vàng miếng luôn cao hơn giá vàng quốc tế khoảng hơn 2.000.000đ/lượng, thậm chí có thời điểm lên tới 5.000.000 đồng/lượng.
Do đó, việc nghiên cứu thực hiện các giải pháp để chuyển hóa nguồn lực vàng trong dân cho sản xuất, kinh doanh đang là một nhiệm vụ rất cấp bách hiện nay.
Xuất khẩu vàng để tái tạo ngoại tệ
Khi các cơ quan chức năng vẫn đang loay hoay với bài toán huy động nguồn lực vàng trong dân, thì có một giải pháp chuyển hóa vàng trong dân rất khả thi và chứa đựng ít rủi ro. Đó là xuất khẩu vàng để tái tạo ngoại tệ.
Tuy nhiên, theo quy định tại Thông tư số 36/2015/TT-BTC ngày 23/03/2015 của Bộ Tài chính sửa đổi mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng vàng trang sức, kỹ nghệ và các sản phẩm bằng vàng thuộc các nhóm 71.13, 71.14, 71.15 tại biểu thuế xuất khẩu, thì vàng trang sức, mỹ nghệ xuất khẩu có hàm lượng từ 95% trở lên phải chịu thuế suất 2%. Quy định này đang làm khó DN, bởi vàng có giá trị rất lớn, trong khi chênh lệch giá mua, bán vàng không đáng kể, chỉ khoảng 1/1000. Do đó, với thuế suất 2%, các DN đành “bó tay”, mà chỉ tập trung đẩy mạnh xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ thấp tuổi.
Thế nhưng, đối với các loại vàng trang sức, mỹ nghệ thấp tuổi, các đối tác nước ngoài luôn đòi hỏi trình độ thiết kế, chế tác rất tinh xảo, nên hiện nay chỉ một vài DN sản xuất kinh doanh vàng VN mới có thể đáp ứng được.
Trên thực tế, xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ là xuất khẩu giá trị lao động sống và tái tạo ngoại tệ từ nguồn vàng nguyên liệu, máy móc, công nghệ nhập khẩu nên cần được khuyến khích phát triển. Hơn nữa, theo Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc; ASEAN - Hàn Quốc; ASEAN - Nhật Bản, đến năm 2018, thuế suất nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ từ các quốc gia này vào các nước ASEAN sẽ giảm xuống 0%. Do đó, nếu Bộ Tài chính không kịp thời điều chỉnh thuế suất xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ, thì các sản phẩm của các DN kinh doanh vàng VN không những không xuất khẩu được, mà còn bị “lép vế” ngay trên sân nhà.
Bởi vì, các sản phẩm vàng trang sức, mỹ nghệ nhập ngoại từ Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ… có mẫu mã đa dạng, kiểu dáng đẹp, giá thành thấp, được hưởng thuế suất xuất khẩu 0%…., nên sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn sản phẩm trong nước.
Ngoài ra, theo Nghị định 24/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, hiện nay các DN chỉ được phép xuất khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng bột, vẩy hàn, muối vàng và các loại vàng trang sức dưới dạng bán thành phẩm, mà chưa được phép xuất khẩu vàng miếng. Do đó, khi Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/NĐ-CP, NHNN cũng nên nghiên cứu trình Chính phủ cho phép các DN có đủ điều kiện được xuất khẩu vàng miếng để góp phần tái tạo nguồn ngoại tệ trước đây được sử dụng để nhập khẩu vàng nguyên liệu sản xuất vàng miếng. (DDDN)
-------------------------------
20 năm sau khủng hoảng tài chính châu Á: Những bài học đã bị lãng quên?
Năm 1997, người Hàn Quốc khá kiêu ngạo nhưng là bởi họ có những lý do chính đáng. Trong suốt 30 năm, quốc gia Đông Á này luôn được coi là 1 kỳ tích trong lịch sử kinh tế thế giới khi đã “biến hình” từ 1 vùng đất nghèo khó tan hoang sau chiến tranh thành 1 cường quốc công nghiệp. Kinh tế Hàn Quốc không hoàn hảo: các tập đoàn lớn vay nợ quá nhiều để rồi lại đầu tư vào những dự án kém hiệu quả. Tuy nhiên, hết lần này đến lần khác, Hàn Quốc bỏ qua những rắc rối này, bởi tương lai vẫn rất xán lạn.
Nhưng sự thực đã không diễn ra như vậy. Ngày 2/7/1997, cách đây đúng 20 năm, Thái Lan quyết định thả nổi đồng baht. Trong bối cảnh thị trường vốn đã rất lo lắng trước tình trạng đồng tiền này sụt giá quá mạnh, động thái của Thái Lan ngay lập tức thổi bùng lên khủng hoảng tài chính ở châu Á. “Cơn bão” càn quét qua Thái Lan, Malaysia, Indonesia và cuối cùng đã chạm tới Hàn Quốc. Kết quả là ở Hàn Quốc xuất hiện 1 làn sóng phá sản, kéo theo các ngân hàng sụp đổ. Hàn Quốc phải cầu cứu 1 gói cứu trợ đáng xấu hổ từ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
Lịch sử đã chứng minh một thông điệp hết sức rõ ràng: dù mạnh khỏe đến đâu, không có nền kinh tế nào miễn nhiễm với khủng hoảng tài chính nếu như các nhà hoạch định chính sách của nó không thể kiểm soát rủi ro.
Người viết bài này vẫn nhớ như in cuộc khủng hoảng 1997 bởi đã tận mắt chứng kiến nó với tư cách là 1 phóng viên ở Seoul, bị vây quanh bởi sự hỗn loạn, mất phương hướng và cả những khổ đau. Đó là cả 1 xã hội đã làm việc không ngừng nghỉ để thoát khỏi đối nghèo nhưng cuối cùng vẫn bất lực nhìn thành quả “bốc hơi”. Những bà nội trợ quyên góp cả số đồ trang sức đã tích trữ cả đời trong nỗ lực giải cứu đất nước. Những người đàn ông vốn là trụ cột của gia đình trong những bộ vest tối màu vật vờ ở công viên vì không dám trở về nhà để nói với gia đình rằng mình đã bị sa thải. Mọi thứ diễn ra quá nhanh đến nỗi cảm thấy bị sốc là điều khó tránh khỏi.
20 năm sau, dường như bài học nói trên đã bị lãng quên. Bị lu mờ bởi cơn bão xuất phát từ phố Wall năm 2008, thậm chí khủng hoảng tài chính châu Á nay giống như một trang sử quá cũ kỹ. Tuy nhiên, đây là 1 điều không may mắn cho kinh tế thế giới, bởi sự kiện năm 1997 vẫn đem lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá về khủng hoảng nợ, chúng đã xảy ra như thế nào cũng như cách phòng tránh chúng. Bỏ qua bài học này, kinh tế thế giới lại một lần nữa hết sức mong manh trước những hậu quả khủng khiếp của khủng hoảng tài chính.
Có thể vạch ra một vài nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính. Thứ nhất, nợ tăng quá nhanh luôn luôn là thứ nguy hiểm dù ở trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Thứ hai, nguyên nhân khiến nợ chất đống là do những lỗ hổng trong nền kinh tế đã bị bỏ qua hoặc không được giải quyết triệt để. Thứ ba, luôn luôn có những chuyên gia uy tín cho rằng núi nợ ấy không nguy hiểm như trong lịch sử nhưng cuối cùng thì họ đã sai.
Hãy áp dụng các nguyên nhân này vào trường hợp Hàn Quốc năm 1997. Đầu tiên, nợ của khu vực tư nhân đã tăng quá nhanh so với GDP. Đến giữa năm 1997, tỷ lệ nợ tư nhân/GDP đã lên tới 149%, tăng 52 điểm phần trăm chỉ trong 1 thập kỷ (ở Thái Lan và Malaysia còn tăng nhanh hơn, lần lượt 99 và 62 điểm phần trăm trong khi ở Indonesia tỷ lệ tăng gấp đôi).
Khối nợ của Hàn Quốc quá lớn một phần là bởi lỗ hổng trong nền kinh tế. Đó là mối quan hệ mờ ám giữa giới chức, ngân hàng và doanh nghiệp, khiến 1 lượng vốn lớn được đổ vào những dự án hoành tráng nhưng thực chất không hiệu quả. Nhưng các nhà quản lý đã nhắm mắt làm ngơ trước rủi ro. Nền kinh tế đang đi đúng hướng, sao phải lo lắng? Đúng là khủng hoảng xảy ra do tác nhân bên ngoài, nhưng nếu không quá chủ quan, Hàn Quốc sẽ không mong manh đến vậy trước 1 cú đánh bất ngờ.
Đáng buồn là lịch sử cho thấy xu hướng này sẽ lặp lại. Nghiên cứu được Capital Economics thực hiện năm 2015 về các khủng hoảng ở thị trường mới nổi kể từ năm 1990 đến nay cho thấy mọi quốc gia có tỷ lệ nợ tư nhân/GDP tăng trưởng hơn 30 điểm phần trăm trong 10 năm gần như sẽ không thể tránh khỏi 1 cuộc khủng hoảng ngân hàng.
Nếu bài học châu Á được tiếp thu, thảm họa 2008 có lẽ sẽ không xảy ra. Tỷ lệ nợ tư nhân/GDP của Mỹ đã tăng 44 điểm phần trăm trong 10 năm tính đến giữa 2008. Phần lớn số nợ này gắn với các khoản nợ thế chấp có rủi ro cao sinh ra từ thị trường nhà đất. Mức độ rủi ro của chúng đã bị xem nhẹ sau khi được chẻ nhỏ và phát tán ra toàn bộ khu vực tài chính. Ngày nay ai cũng lắc đầu trước câu chuyện ấy, nhưng ở thời điểm 2008 nó được chấp nhận rộng rãi. Toàn bộ hệ thống ngân hàng Mỹ đã không được chuẩn bị tốt cho “khoảnh khắc Lehman”.
Chưa gục ngã nhưng Trung Quốc đang rơi vào tình huống tương tự. Nếu như cuối năm 2007 tỷ lệ nợ/GDP của nước này chỉ là 118%, đến cuối năm 2016 con số đã lên đến 211%, tức tăng 93 điểm phần trăm trong chưa đầy 10 năm. Và nguyên nhân cũng khá giống với Hàn Quốc khi xưa: nguồn vốn không được phân bổ hiệu quả.
Lý do để quả bom nợ ở Trung Quốc chưa “phát nổ” là do phần lớn là khoản vay nội địa. Hơn nữa Chính phủ có thể quản lý chúng vì đó là những khoản vay mà các ngân hàng quốc doanh dành cho các tập đoàn nhà nước.
Nhưng cuộc khủng hoảng ở Hàn Quốc cho thấy thành công trong quá khứ không thể đảm bảo chắc chắn tương lai. Điều gì cũng có thể xảy ra. Chắc hẳn chẳng có ai đoán được đồng baht Thái mất giá có thể tạo ra 1 cuộc khủng hoảng trên toàn châu Á.
Những vụ bắt bớ một số nhân vật tầm cỡ trong giới tài chính gần đây và những động thái nhằm hạ nhiệt tăng trưởng tín dụng cho thấy giới chức Trung Quốc đã nhận thức được sự nguy hiểm. Tuy nhiên, thời gian đã hết. Quả bom nợ ở Bắc Kinh đã đếm ngược quá lâu và tình thế hiện tại khá khó giải quyết. (Thoidai)