Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng nâng gói 30.000 tỷ lên gần 33.000 tỷ đồng
Bắt nguyên Giám đốc Ngân hàng Agribank chi nhánh Nam Hoa
Hà Nội: Thêm một dự án du lịch nghỉ dưỡng “khủng” sắp được triển khai
Mở rộng Sân bay Nội Bài: Riêng “tiền đất” mất 2 tỷ USD
Tin Việt Nam - tin trong nước đọc nhanh sáng 01-06-2016
- Cập nhật : 01/06/2016
Chuyên gia SIPRI: 'Thị trường vũ khí dành cho Việt Nam sẽ gia tăng cạnh tranh'
Các nước sẽ gia tăng cạnh tranh chào hàng bán thiết bị quân sự cho Việt Nam. Ảnh minh họa: Aviation Spectator
Ông Siemon Wezeman, nhà nghiên cứu cấp cao, Chương trình Chi tiêu quân sự và vũ khí, Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), trao đổi với VnExpress về triển vọng của thị trường và cả tác động ở Biển Đông sau quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí cho Việt Nam của Mỹ.
- Ông đánh giá thế nào về chuyến thăm Việt Nam của ông Obama?
- Về hợp tác song phương, chuyến thăm cho thấy sau nhiều năm nỗ lực vượt qua những hệ lụy của chiến tranh, khi chấm dứt lệnh cấm vận vũ khí thì Việt - Mỹ đã bắt đầu một mối quan hệ bình thường, cả về khía cạnh gia tăng thương mại và hợp tác kinh tế.
Với các nước, chuyến đi của tổng thống Obama cũng phản ánh mối quan hệ của Mỹ với Trung Quốc, với các đồng minh như Nhật Bản, Australia, Ấn Độ, Indonesia và các nước Đông Nam Á khác. Trong khi Mỹ rõ ràng coi Trung Quốc là một "vấn đề tiềm ẩn", các đồng minh của Washington lo ngại Bắc Kinh sẽ đẩy những yêu sách chủ quyền tới mức họ không muốn. Chuyến thăm Việt Nam của ông Obama cho thấy Washington muốn "lôi kéo" Hà Nội về phía mình.
- Các bước tiếp theo của việc dỡ bỏ cấm vận vũ khí?
- Việt Nam có thể xem xét một số thiết bị nhất định của Mỹ, chẳng hạn như máy bay tuần tra trên biển mà hai bên từng đề cập. Đầu tiên công ty quốc phòng Mỹ sẽ đưa ra lời chào hàng, để chính phủ xem xét có muốn bán một loại cụ thể nào không. Có thể Mỹ sẽ nói rằng "đúng là chính quyền Obama đã đưa ra và chúng tôi sẽ xem xét" nhưng cũng có khả năng Mỹ dừng giao hàng máy bay tuần tra đến Biển Đông. Tất nhiên tình hình vẫn đang trong trạng thái chờ.
Việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận không có nghĩa là họ sẽ bán ngay vũ khí cho Việt Nam. Để mua được, Hà Nội cần phải trải qua một quá trình xem xét ra quyết định của Washington, có thể một số vũ khí mà họ không bán với một số lý do nào đó và đây là điều bình thường với giao dịch vũ khí của Mỹ. Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét khả năng tài chính của mình.
Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý là việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí của Mỹ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Hà Nội có thể tiếp cận công nghệ quân sự của Mỹ mà không cần nhập trực tiếp từ nước này. Chẳng hạn như Việt Nam có thể mua máy bay quân sự của Tây Ban Nha dùng động cơ Mỹ. Điều đó có nghĩa Việt Nam sẽ có nhiều lựa chọn để mua vũ khí ở nhiều nơi, không chỉ từ thị trường truyền thống như Nga. Có thể nói thị trường vũ khí dành cho Việt Nam sẽ có sự cạnh tranh cao.
Quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí cũng mở ra cơ hội để Mỹ có một số hỗ trợ quân sự cho Việt Nam. Washington có thể cung cấp một số thiết bị, phụ tùng trang bị mới cho Hà Nội. Tuy nhiên việc này cần thực hiện theo các điều kiện của chính phủ Mỹ đưa ra, dù Quốc hội Mỹ đã ngụ ý là không ngăn chặn.
- Tân tổng thống Mỹ sẽ duy trì chính sách với Việt Nam như thế nào?
- Bất kể ai chiến thắng trong cuộc đua vào Nhà Trắng sắp tới thì chính sách chung vẫn là coi Trung Quốc là một "vấn đề tiềm ẩn", coi các nước có tranh chấp với Bắc Kinh là bạn bè tiềm năng. Chắc chắn một số người ở Mỹ sẽ nói không thể "bỏ qua chiến tranh" nhưng tôi nghĩ hầu hết mọi người ở Mỹ đều nhận thức rõ chiến tranh đã trôi qua hơn 40 năm, điển hình như Thượng nghị sĩ John McCain, từng là tù binh ở Việt Nam. Mặc dù hai nước còn có những khác biệt, trong đó có vấn đề nhân quyền, nhưng nhiều người Mỹ coi Việt Nam là một nước có thể trở thành đồng minh trong tương lai.
- Đánh giá của ông về khả năng Mỹ tiếp cận cảng Cam Ranh của Việt Nam?
- Đó là một bước đi khác, có thể là thỏa thuận khác giữa hai nước về việc Mỹ được phép vào đây hay không. Washington có thể đến thăm Cam Ranh nếu được Hà Nội mời, nhưng chỉ là chuyến thăm hữu nghị và đã có chuyến thăm tương tự của các nước khác. Song việc lực lượng Mỹ đặt cơ sở lâu dài thì lại là chuyện hoàn toàn khác. Chính phủ Việt Nam có chấp thuận về lâu dài hay tạm thời, Mỹ cần một số bảo đảm cho lực lượng của mình hay không, đó là cả một quá trình. Có thể Washington không thực sự cần đến Cam Ranh nhưng nhìn từ khía cạnh tạo ra "mặt trận liên kết" giữa Mỹ cùng bạn bè, đồng minh và đối tác trong khu vực thì điều này có thể xảy ra.
- Ông đánh giá thế nào khi Tổng thống Obama khẳng định việc dỡ bỏ lệnh cấm không bị ảnh hưởng bởi yếu tố Trung Quốc?
- Có hai điều mà ông Obama muốn nói: thứ nhất là Mỹ có mối quan hệ bình thường với Việt Nam, và để xử lý những vấn đề tiềm ẩn với Trung Quốc, Washington cần hợp tác với các nước đối tác trong khu vực. Thứ hai: bỏ lệnh cấm vũ khí nhằm tạo điều kiện để Việt Nam sở hữu các thiết bị như máy bay tuần tra ở Biển Đông, khi Hà Nội đang xử lý tranh chấp với Bắc Kinh ở khu vực này.
- Ông dự đoán tình hình Biển Đông sau sự kiện này?
- Chúng ta có thể đoán được Trung Quốc sẽ "kêu la", mình bị đẩy vào thế khó, không thể bị "hăm dọa, bị gây áp lực". Tuy nhiên cũng có một khả năng khác mà nhiều người đồng tình với tôi, là khi Trung Quốc nhìn ra "tất cả mọi người đều chống lại mình", họ sẽ "nới lỏng ra", quay lại bàn đàm phán và giảm bớt thái độ tiêu cực.
Tổng thống Obama đã có tuyên bố khá cứng rắn tại Hà Nội, khi nói tàu Mỹ sẽ tiếp tục tuần tra Biển Đông. Tuyên bố cảnh báo cho Trung Quốc rằng "anh có thể đến gần nhưng không thể chiếm giữ Biển Đông". Rõ ràng Mỹ không chấp nhận bất cứ quyết định đơn phương nào của Trung Quốc ở vùng biển này. Các nước tuân thủ theo Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc (UNCLOS) và Mỹ sẽ vẫn duy trì vị trí đã có nhiều thập kỷ nay, là tuần tra ở những khu vực luật pháp quốc tế cho phép.(VNEX)
Thái Lan hỗ trợ tài chính giúp Việt Nam khắc phục hậu quả xâm nhập mặn
Phó thủ tướng Phạm Bình Minh (phải) tiếp ông Manopchai Vongphakdi, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Thái Lan tại Việt Nam. Ảnh: VGP.
Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh chiều nay có buổi tiếp Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Thái Lan tại Việt Nam Manopchai Vongphakdi tại trụ sở Bộ Ngoại giao.
Tại buổi tiếp, Phó thủ tướng Phạm Bình Minh đề nghị hai bên tiếp tục phối hợp triển khai hiệu quả Tuyên bố chung của cuộc họp Nội các chung Việt Nam – Thái Lan lần thứ ba, Chương trình Hành động triển khai quan hệ Đối tác Chiến lược Việt Nam – Thái Lan 2014 - 2018, tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.
Đại sứ Vongphakdi khẳng định sẽ làm hết sức để góp phần tăng cường, thúc đẩy hơn nữa quan hệ Đối tác Chiến lược Việt Nam – Thái Lan. Đại sứ thông báo chính phủ Thái Lan quyết định dành 50.000 USD và hiệp hội các doanh nghiệp Thái Lan đang làm ăn tại Việt Nam cũng quyên góp thêm 50.000 USD để hỗ trợ Việt Nam khắc phục hậu quả nặng nề do hạn hán và xâm nhập mặn gây ra tại các tỉnh miền nam Việt Nam.
Phó thủ tướng Phạm Bình Minh đề nghị hai nước tiếp tục tích cực hợp tác với nhau và với các nước, các tổ chức quốc tế trong việc quản lý, sử dụng bền vững và có hiệu quả nguồn nước sông Mekong.
Cũng trong chiều nay, Phó thủ tướng Phạm Bình Minh đã tiếp ông Noel Servigon, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Philippines tại Việt Nam. Ông khẳng định Việt Nam luôn hợp tác chặt chẽ với Philippines nhằm tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước, vì hoà bình, ổn định và thịnh vượng khu vực.
Phó Thủ tướng đề nghị hai bên cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ triển khai những nội hàm Đối tác Chiến lược để đưa quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả và thực chất hơn nữa.
Ông Servigon tin rằng các hoạt động trọng thể kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2016 là dịp tốt để tăng cường giao lưu và hiểu biết giữa nhân dân hai nước. Ông khẳng định sẽ làm hết sức mình để thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước trong thời gian tới.
Nước mắt hội nhập của người Việt ở Đức
ếu ai muốn tìm đến thế giới Việt Nam ở Đức, người đó sẽ được dẫn đến quận Lichtenberg ở thành phố Berlin, Fluter cho hay. Nằm giữa những tòa nhà lắp ghép và ống khói cũ xây bằng gạch nung là 6 dãy nhà dài, được xây dựng theo kiểu có thể mô tả nôm na là "phù hợp cho mục đích sử dụng".Cấu trúc bên trong những ngôi nhà này cái nào cũng như nhau, gồm một hành lang dài, bên phải bên trái vô số cửa hàng, cửa hiệu. Đó là khu giao hàng lớn của người Việt Nam tại Berlin, nơi mà bạn có thể mua hoa giả, mua quần áo, cắt tóc, mang tên Chợ Đồng Xuân.
Trong một cửa hàng ở nhà số một, nơi có bán các loại rau, mỳ sợi, gạo và mọi thứ quen thuộc ở các cửa hàng thực phẩm Á Châu, ông Do Tuan Tu, 51 tuổi, ngồi khom vai đằng sau chiếc máy tính xách tay, cau mày, gõ gõ gì đó lên bàn phím. Một khách hàng đặt một túi rau lên bàn, ông Tú liếc nhìn qua, nói với khách: "2 euro, cảm ơn, xin chào".
Cửa hàng này là cơ nghiệp của vợ chồng ông Tu và bà Lien. Hai người mở cửa hàng này từ năm 2004, sau khi đóng cửa một nhà hàng châu Á.
"Vợ chồng tôi làm việc 10 - 12 tiếng một ngày. Mỗi tuần 6 ngày", ông Tu nói tiếng Đức với chất giọng vẫn còn mang nặng âm hưởng tiếng Việt và nhanh chóng bổ sung thêm. "Hai vợ chồng tôi mỗi người thu nhập 2 euro một giờ, sau khi trừ đi các khoản chi phí. Nói chung là cũng đủ sống".
27 năm nay, gia đình ông vẫn sống trong một căn hộ ở Lichtenberg, không xa Chợ Đồng Xuân là bao.
Ông Tu sang Đức năm 1987 theo diện công nhân của chương trình hợp tác lao động. Ông từng tốt nghiệp đại học Kiến trúc nhưng hồi đó nhà nghèo, không có việc làm. Vào những năm 1980, cộng hòa dân chủ Đức cần rất nhiều lao động cho các nhà máy. Trong những công việc nhận công nhân hợp tác có cả những việc được trả lương thấp, đơn điệu và nặng nhọc, ví dụ như khâu, may trong các nhà máy dệt kim.
Cuối năm 1989, có gần 60.000 người Việt Nam đã đến Chemnitz, Dresden, Đông Berlin và các thành phố khác ở Đông Đức. Tập thể công nhân Việt Nam sống trong các ký túc xá của họ, không được phép tiếp xúc với người dân Đông Đức. Họ thường bị gọi là "Fiji", như thể họ là những người đến từ vùng biển ở Nam Thái Bình Dương vậy.
Sau khi nước Đức thống nhất, các công nhân hợp tác lao động là những người đầu tiên bị mất việc làm. Trong khi chính phủ Đức tìm mọi cách để đưa người Việt về nước thì họ cố gắng xoay xở để sinh sống. Họ đi bán thuốc lá lậu, mở quán ăn nhanh, mở cửa hàng rau, quả, cắt sửa quần áo, bán hoa…
Mãi đến cuối những năm 1990, phần đông công nhân hợp tác lao động còn ở lại nước Đức mới được cấp giấy phép cư trú vô thời hạn. Nhiều người thậm chí còn được nhập quốc tịch Đức. Hiện nay, ước tính có khoảng hơn 130.000 người gốc Việt đang sinh sống ở Đức.Phần lớn những người thuộc về thế hệ nhập cư thứ nhất này là người miền Bắc như ông Tu và con cái của ông, nhưng cũng có những người miền Nam sang Đức ngay sau khi kết thúc chiến tranh ở Việt Nam năm 1975, được chính phủ Đức hỗ trợ và so với các công nhân hợp tác lao động trước đây, nhìn chung họ đã hòa nhập vào xã hội Đức tốt hơn và nhanh hơn.
Vào những năm 1990, người Việt Nam ở Đông Đức không chỉ phải bôn ba lo cho cuộc sống. Họ còn phải chịu đựng nạn phân biệt chủng tộc, nhiều lúc còn bị đuổi đánh. Đối với nhiều người dân bản xứ, người Việt thường bị coi là "Fiji" và tốt nhất nên trục xuất ra khỏi nước Đức.
Trong một cuộc bạo loạn ở Rostock vào năm 1992, những người cánh hữu cực đoan đã châm lửa đốt một ngôi nhà tập thể nơi người Việt Nam sinh sống.
Những năm gần đây, sự phân biệt chủng tộc đã giảm bớt và cái nhìn chung của người Đức về người Việt Nam cũng được thay đổi một cách hoàn toàn. Nếu trong những năm 1990, người ta thường nói về chuyện rửa tiền, tống tiền và giết người tàn bạo của mafia Việt Nam thì hiện nay báo chí Đức lại viết về "phép lạ Việt Nam", về "những người nhập cư thành công". Đài truyền hình Đức phát những bài phóng sự nói về "Người Việt Nam khôn ngoan". Họ còn cho hay học sinh gốc Việt nhận được bằng tú tài nhiều hơn là cả học sinh Đức cùng trang lứa.
Ông Thilo Sarrazin, tác giả của những quyển sách gây tranh cãi nhưng rất ăn khách thường mang nội dung phê phán người nhập cư, cũng đã phải đưa ra hình ảnh của nhóm người nhập cư đến từ Đông Nam Á gương mẫu, chí thú, hiếu học, im lặng hòa nhập và không gây ra một vấn đề gì cho nước Đức. Các nhà chính trị cũng thường nhấn mạnh rằng người Việt Nam đã hòa nhập vào xã hội Đức một cách tuyệt vời.
Tuy nhiên, với bà Mai Phương Kollath, người có một văn phòng cùng phố với Chợ Đồng Xuân, những lời khen ngợi trên có phần sáo rỗng và làm bà khó chịu. Bà cảm thấy bực bội khi nghe các bài phát biểu mà trong đó chỉ thấy ca ngợi người Việt là những người nhập cư tuyệt vời.
Bản thân bà từng là công nhân hợp tác lao động ở Đức và hiện làm công tác tư vấn cho người Việt và người Đức về trao đổi văn hóa.
"Chính sách nhà nước không hỗ trợ được nhiều cho người Việt ở Đông Đức. Ví dụ như phía chính quyền chưa bao giờ nỗ lực để đưa người Việt vào các khóa học tiếng Đức", bà Kollath nói. "Nhiều người nhập cư Việt Nam thuộc thế hệ thứ nhất ở Đông Đức đang sống với mức thu nhập tối thiểu dù họ làm việc rất nhiều. Thậm chí sau 30 năm, nhiều người ở thế hệ thứ nhất cũng chỉ biết bập bẹ tiếng Đức".
Họ không thể tham gia vào các cuộc tranh luận, không bày tỏ được ý kiến phê phán của mình cũng như không thu hút, lôi kéo được sự chú ý vào những vấn đề thực tế.
"Thế hệ thứ nhất dồn hết tiền của của mình cho con cái và cho việc học hành của chúng. Họ bảo con em mình rằng chúng phải học từ sáng đến tối. Tốt nhất là học cả vào cuối tuần. Nhiều trẻ em trong gia đình người Việt rất sợ mang điểm xấu về nhà, sợ không đáp ứng được kỳ vọng của bố mẹ", bà Kollath nói.
Trẻ em trong các gia đình người Việt không có năng khiếu hơn, thông minh hơn hay thành đạt hơn các trẻ em khác, nhưng những áp lực mà chúng phải đối mặt là nặng hơn.
Bà Lương Thủy, một nhân viên công tác xã hội ở trường Barnim Gymnasium tại Berlin - Lichtenberg xác nhận điều này. Trong số 1.000 học sinh ở đây, có khoảng 170 em có bố mẹ là người Việt Nam.
Đối với nhiều phụ huynh Việt Nam, cái quan trọng nhất đối với họ là chu cấp đầy đủ cho con cái về mặt vật chất. "Chính vì thế mà họ làm việc rất nhiều. Họ muốn tạo cho con cái mọi điều kiện có thể ở nước Đức. Nhưng nhiều em lại không cần phải có nhiều tiền hơn mà chỉ muốn được bố mẹ dành nhiều thời gian quan tâm và hiểu mình nhiều hơn", bà Thủy nói.
Cũng vì các bố mẹ làm việc cả ngày từ sáng đến tối trong cửa hàng, trong các quán xá nên các em không ít thì nhiều phải tự thân vận động."Đối với các bậc phụ huynh người Việt, mỗi người trong gia đình phải gánh một trách nhiệm phù hợp với vai trò của mình", bà Thủy nói. "Họ rất hay lấy thành tích của con mình ra để so sánh với thành tích của các cháu khác trong cộng đồng người Việt".
Sự khác biệt về những giá trị và tư tưởng giữa hai thế hệ bố mẹ Việt Nam và con cái sinh ra ở Đức cứ va chạm nhau hằng ngày. Hai thế giới quá khác biệt đến mức chúng không thể đơn giản tồn tại cạnh nhau một cách lặng lẽ và trong ôn hòa.
Sự bất đồng ngôn ngữ giữa hai thế hệ cũng không phải là chuyện hiếm. Thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai rất hay gặp khó khăn khi giao tiếp với nhau và để hiểu được nhau. Con cái nói nhiều tiếng Đức, ngôn ngữ mà chúng nắm vững một cách hoàn hảo, và nói quá ít tiếng Việt để có thể trò chuyện với bố mẹ một cách sâu sắc.
Cấu trúc tiếng Việt cũng khác hoàn toàn với tiếng Đức. Người lớn tuổi trong gia đình được gọi bằng cô (em gái của bố), bằng mợ (vợ của em trai mẹ), chú (em trai bố)... Bản thân người nói đã tự xưng mình ở ngôi thứ ba. Khue Pham, một nhà báo ở Đức, từng viết về cách xưng hô này một cách rất khéo léo: "Nếu bạn ở Việt Nam, bạn sẽ quên mất ngôi tôi".
Những ranh giới ngôn ngữ, văn hóa và đạo đức xảy ra trong phòng khách của một gia đình là điều mà Thao Tran từng trải qua. Thao sinh năm 1992, bố mẹ cô từ Việt Nam sang Cottbus vào năm 1988.
"Ở trường, tôi luôn là một học sinh giỏi, tôi muốn trở thành bác sĩ và muốn làm tất cả để gia đình tự hào. Tôi không biết gì khác và cũng không thắc mắc tại sao lại như vậy", Thao nói.
Năm 16 tuổi, Thao sang Mỹ theo chương trình trao đổi học sinh. "Ở đó, có một lần tôi được hỏi là tôi muốn sau này làm nghề gì, ý tưởng của tôi là gì. Hết năm học ở Mỹ, tôi quay về Đức và khi về đến nhà, tôi như gặp một cú sốc văn hóa", Thao nói. "Luôn phải có thành tích, luôn phải thành công, luôn phải cống hiến tất cả cho gia đình. Chúng tôi đã phải trải qua một thời kỳ đau khổ, phải sống xa nhau và rồi lại được đoàn tụ cùng nhau".
Tuy nhiên, một thời gian sau đó, bố mẹ cô chia tay nhau. Đó là một điều không thể tưởng tượng được đối với các gia đình Việt Nam.
"Chúng tôi đã giải phóng cho mình khỏi những gì mà chúng tôi luôn nghĩ đó là dĩ nhiên, những gì mà truyền thống định sẵn từ khi bố mẹ tôi lớn lên ở Việt Nam", Thao nói.
Sau đó, cô không trở thành bác sĩ nữa, không mang trên vai danh dự của gia đình nữa. Thay vào đó, cô lên Berlin, làm việc ở nhà hát và học một ngành khoa học nhân văn.
Bố mẹ cô hiện nay là bạn bè tốt với nhau và thi thoảng, hai người cũng cùng con gái về Việt Nam thăm quê. "Đến giờ ông bà nội tôi vẫn làm như bố mẹ tôi chưa hề bỏ nhau. Bởi vì đáng ra, điều đó không thể xảy ra", Thảo cười và nói.
Cô đã tự giải phóng mình ra khỏi những truyền thống nhưng không quên đi văn hóa gốc gác. Có lẽ chỉ khi rời xa quê hương, người ta mới thực sự hiểu bản thân mình là ai. (VNEX)
Đội Hòa bình Mỹ sắp cử đến Việt Nam
Trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Barack Obama, Bộ ngoại giao Việt Nam ngày 24/5 đã ký văn bản chấp thuận cho Peace Corps (Đội Hòa bình) tới Việt Nam để giảng dạy tiếng Anh tại Hà Nội và TP HCM.
"Đây là bước tiến tiếp theo để xây dựng mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam", Ngoại trưởng Mỹ John Kerry phát biểu tại lễ ký kết.
Peace Corps từng nhiều lần nỗ lực xin phép hoạt động tại Việt Nam. Năm 2012, Giám đốc Peace Corps khi đó là ông Aaron Williams, đã có chuyến thăm Việt Nam kéo dài ba ngày để tìm kiếm khả năng được phép tổ chức chương trình.
Kể từ những năm 1960, hơn 220.000 người Mỹ đã tham gia Peace Corps, phục vụ tại 141 quốc gia. Các tình nguyện viên của tổ chức này có mặt ở 63 quốc gia trên thế giới. Họ sống tại các quốc gia chủ nhà trong vòng 27 tháng, và hoạt động trong các lĩnh vực như giáo dục, môi trường, y tế, nông nghiệp, thanh niên và phát triển cộng đồng.
'Quyền lực mềm'
Peace Corps là một chương trình tình nguyện của chính phủ Mỹ, ra đời năm 1961, do cố tổng thống Mỹ John F. Kennedy khởi xướng. Nhiệm vụ mà Peace Corps đề ra bao gồm cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, giúp đỡ những người ngoài nước Mỹ hiểu về văn hóa Mỹ, và giúp người Mỹ hiểu được nền văn hóa của các quốc gia khác.
Một báo cáo của viện Brookings năm 2003 viết rằng Peace Corps được sinh ra trong thời Chiến tranh Lạnh, nhằm "lấy lòng" các nước đang phát triển không liên kết với khối cường quốc nào. Báo cáo gọi Peace Corps là một trong những công cụ nhỏ nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Theo Boston, cơ quan này về cơ bản được bắt đầu vào thời Chiến tranh Lạnh như một hình thức mà ngày nay gọi là "quyền lực mềm", nhằm thể hiện khuôn mặt thân thiện của Mỹ. Một số nhà phê bình cho rằng Peace Corps là nỗ lực để cải thiện hình ảnh của Mỹ ở nước ngoài, sau khi nước này tiến hành các chiến dịch can thiệp quân sự.
Tuy nhiên, Boston cũng nhận xét vai trò "quyền lực mềm" của tổ chức hiện không còn là ưu tiên quốc gia.
Các nhà phê bình cho rằng nếu được chỉ đạo tốt, Peace Corps là một nguồn tài nguyên các tình nguyện viên trẻ đầy nhiệt huyết, có thể thực hiện các thay đổi ý nghĩa ở những nước họ đến. Tuy nhiên, điều họ lo ngại là tổ chức này sẽ ngày càng trở thành một đoàn những người trẻ tuổi được gửi đến các quốc gia xa xôi, chỉ đơn giản là để giao du với những người Mỹ khác giống họ.
"Vì sao những người đóng thuế Mỹ lại phải trả tiền cho những sinh viên tốt nghiệp đại học đi nghỉ hai năm tại nước ngoài?" Paula Hirschoff, người từng là tình nguyện viên Peace Corps, nói.
Một số nhà phê bình cho rằng cơ quan này không được cơ cấu để tạo ra những phát triển hiệu quả tại nước họ đến. Họ cho rằng các tình nguyện viên thiếu kinh nghiệm làm việc gần như hoàn toàn riêng biệt với người khác, với giới hạn thời gian khiến cho những thành quả họ tạo ra chỉ có tác động ngắn hạn.
Gal Beckerman, nhà báo từng viết cho nhiều báo lớn của Mỹ, là tình nguyện viên từ năm 1999 - 2001 tại Cameroon. Ông được giao nhiệm vụ dạy tiếng Anh tại trường trung học địa phương, nhưng thực chất trường này đã có khá nhiều giáo viên tiếng Anh. Cuối cùng, ông dành hết sức lực vào việc mở một trường mẫu giáo, để trông trẻ cho các bà mẹ làm nông. Nhưng ông cho biết văn phòng Peace Corps tại Cameroon tỏ ra không nhiệt tình với việc duy trì trường mẫu giáo này. Cuối cùng, trường đóng cửa sau khi ông kết thúc thời gian làm tình nguyện viên.
Biên tập viên của trang BoingBoing Xeni Jardin nhắc đến những chỉ trích về phản ứng của cơ quan với các vụ tình nguyện viên bị tấn công tình dục ở nước họ được cử đến. "Ngày càng có nhiều tình nguyện viên cũ của Peace Corps lên tiếng về các vụ hiếp dâm và tấn công tình dục khi thực hiện nhiệm vụ ở nước ngoài. Họ nói rằng cơ quan đã phớt lờ mối lo ngại của họ về an toàn và từ chối khi họ đề nghị đổi địa điểm.
Dấu ấnTrong khi đó, Rajeev Goyal, cựu tình nguyện viên từng thực hiện các dự án thành công ở Nepal, cho rằng thành quả của Peace Corps không nằm ở việc phát triển kinh tế. "Nó chủ yếu là về văn hóa, ngôn ngữ và con người", ông nói và cho biết không thể phủ nhận những dấu ấn mà Peace Corps đã đạt được.
Các quan chức Việt Nam và Mỹ trong lễ ký kết văn bản chấp thuận cho Peace Corps hoạt động ở Việt Nam. Ảnh: Reuters
Giáo dục là mảng hoạt động lớn nhất của tổ chức này, chiếm 37% số lượng chương trình, tiếp đến là y tế (24%), môi trường (10%) và phát triển thanh niên (10%). Trong đó, năm 2015, lực lượng tình nguyện viên của Peace Corps được cử tới châu Phi chiếm tỷ lệ cao nhất, với 45%, Mỹ Latinh 22% và châu Á với 13%.
Tháng 3/2015, Tổng thống Mỹ Obama, Đệ nhất phu nhân Michelle Obama cùng đại diện Peace Corps, các cơ quan liên bang đã triển khai chương trình Let Girls Learn (Hãy để bé gái đi học). Mục tiêu của chương trình là nhằm thúc đẩy giáo dục và đề cao quyền của trẻ em gái trên toàn thế giới. Chỉ trong vòng 9 tháng, đã có 105 dự án được các tình nguyện viên Peace Corps triển khai tại 32 quốc gia. Chương trình kỳ vọng sẽ giúp 62 triệu bé gái vị thành niên được đi học.
Ngân sách hoạt động của tổ chức này trong năm 2014 và 2015 là khoảng 379 triệu USD.
Những nỗ lực của các tình nguyện viên Peace Corps đã giúp tổ chức này được xem như một trong những tổ chức tình nguyện danh tiếng và quy mô lớn nhất thế giới. Năm 2003, Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) trao tặng giải thưởng Best Practices (Hoạt động Xuất sắc nhất) cho hoạt động tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS tại châu Phi.
Thành công của Peace Corps còn thể hiện ở số lượng người tình nguyện nộp đơn tham gia tổ chức này. Trong năm 2015, khoảng 23.000 người Mỹ đã đăng ký, cao nhất từ năm 1975, và tăng 32% so với năm trước đó, theo tờ Washington Post.
Tại Trung Quốc, từ năm 1993, các tình nguyện viên Peace Corps đã tới đây để dạy tiếng Anh cho các giáo viên theo đề nghị hỗ trợ của chính phủ nước này. Họ thường ở trong ký túc xá các trường sư phạm để đào tạo các giáo viên, một số ít khác dạy tiếng Anh tại các trường kỹ thuật cho những sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp và đi làm.
Hầu hết tình nguyện viên có từ 14 -16 giờ giảng dạy mỗi tuần. Và theo đề nghị của chính phủ Trung Quốc, Peace Corps tập trung nhân lực vào các tỉnh nằm trong Dự án Phát triển Tây Trung Quốc, bao gồm Tứ Xuyên, Giang Tô, Quý Châu và thành phố Trùng Khánh. Đến nay, chương trình vẫn đang được tiếp tục với những phản hồi rất tích cực từ những tình nguyện viên trở về cũng như người bản địa.
Tại các nước trong khu vực Đông Nam Á, Peace Corps đã được triển khai từ những năm 1960, và vẫn đang tiếp tục. Kể từ năm 1962, Thái Lan đã đón hơn 5.200 lượt tình nguyện viên từ Peace Corps. Philippines cũng bắt đầu chào đón Peace Corps từ năm 1961, và đến nay đã có hơn 8.700 lượt tình nguyện viên. Malaysia, Indonesia, Campuchia đều đã từng hoặc vẫn đang tiếp tục hợp tác cùng tổ chức này.
Theo AP, các tình nguyện viên của Peace Corps ngoài việc dạy tiếng Anh tại các trường học ở Hà Nội và TP HCM còn sẽ hướng dẫn cho các đồng nghiệp Việt Nam về phương pháp giảng dạy tiếng Anh(VNEX)