Trong nửa đầu năm 2018, Lào tăng nhập khẩu sắt thép từ Việt Nam thay vì mặt hàng than đá như trong 6 tháng đầu năm 2017.

Nửa đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nga chiếm 1,08% tỷ trọng của cả nước, đạt 1,2 tỷ USD tăng 23,45% so với cùng kỳ 2017, trong đó nhóm hàng sắt thép tăng vượt trội.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Nga trong tháng 6/2018 giảm 10,43% so với tháng 5/2018 nhưng tăng 2,41% so với tháng 6/2017.
Tính chung từ đầu năm đến hết tháng 6/2018, kim ngạch xuất sang thị trường Nga đạt 1,2 tỷ USD, tăng 23,45% so với cùng kỳ năm 2017 – đây cũng là một trong những thị trường truyền thống của Việt Nam và khá “dễ tính” trong khâu tuyển chọn mẫu mã, chất lượng so với nhiều nước châu Âu.
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nga chủ yếu các mặt hàng như gạo, hàng dệt may, cà phê, thủy sản, rau quả, hạt điều… trong đó điện thoại các loại và linh kiện là mặt hàng đạt kim ngạch cao nhất, chiếm 48,6% tỷ trọng, đạt 608,7 triệu USD, tăng 20,26% so với cùng kỳ, đứng thứ hai là mặt hàng cà phê đều tăng cả lượng và trị giá, mặc dù giá xuất bình quân giảm 16,45%, xuống 2.126,4 USD/tấn. Cụ thể, lượng xuất đạt 46,6 nghìn tấn, trị giá 99 triệu USD, tăng 95,6% về lượng và 63,42% trị giá. Kế đến là máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện, tăng 81,37% đạt 94,3 triệu USD….
Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu sang thị trường Nga các mặt hàng đều có tốc độ tăng trưởng, chiếm trên 82,6% và ngược lại nhóm hàng hóa với kim ngạch sụt giảm chỉ chiếm 17,3%.
Đáng chú ý, trong 6 tháng đầu năm nay Nga tăng nhập khẩu mặt hàng sắt thép từ Việt Nam với lượng đạt 5,3 nghìn tấn, trị giá 5,5 triệu USD, tăng gấp 1,1 lần về lượng (tức tăng 110,43%) và gấp 1,2 lần trị giá (tức tăng 123,76%), giá xuất bình quân cũng tăng 6,34% đạt 1046,95 USD/tấn. Bên cạnh đó, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ cụ thể là mặt hàng sản phẩm mây tre cói và thảm cũng có tốc độ tăng đáng kể, tuy chỉ đạt 633,7 nghìn USD nhưng tăng gấp hơn 1,2 lần (tức tăng 119,32%). Ở chiều ngược Nga giảm mạnh nhập khẩu mặt hàng gạo, cụ thể giảm 66,29% về lượng và 61,45% trị giá, tương ứng với 6 nghìn tấn, 2,6 triệu USD mặc dù giá xuất bình quân tăng 14,36% so với cùng kỳ đạt 438,45 USD/tấn.
Đặc biệt, thời gian này cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Nga có thêm mặt hàng quặng và khoáng sản với lượng xuất trong 6 tháng đầu năm 2018 đạt 20 tấn, trị giá 230 nghìn USD.
Hàng hóa xuất khẩu sang Nga 6 tháng đầu năm 2018
Mặt hàng | 6T/2018 | +/- so với cùng kỳ (%) | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng |
| 1.243.641.908 |
| 23,45 |
Điện thoại các loại và linh kiện |
| 608.767.009 |
| 20,26 |
Cà phê | 46.602 | 99.094.569 | 95,6 | 63,42 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
| 94.384.526 |
| 81,37 |
Hàng dệt, may |
| 77.376.792 |
| -14,2 |
Giày dép các loại |
| 53.657.024 |
| 6,3 |
Hàng thủy sản |
| 44.671.181 |
| 8 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
| 43.221.104 |
| 57,16 |
Hạt điều | 3.195 | 30.569.795 | 32,08 | 29,93 |
Hàng rau quả |
| 17.631.658 |
| 8,86 |
Xăng dầu các loại | 22.557 | 17.310.362 | 13,99 | 42,32 |
Chè | 7.316 | 11.015.758 | -14,75 | -4,5 |
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù |
| 10.147.267 |
| 14,65 |
Sản phẩm từ chất dẻo |
| 8.812.488 |
| 74,64 |
Hạt tiêu | 2.205 | 6.422.926 | -28,04 | -59,18 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc |
| 6.247.149 |
| 22,9 |
Cao su | 3.949 | 5.873.578 | 47,46 | 14,59 |
Sắt thép các loại | 5.328 | 5.578.148 | 110,43 | 123,76 |
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận |
| 2.776.852 |
| -12,13 |
Gỗ và sản phẩm gỗ |
| 2.652.467 |
| 30 |
Gạo | 6.041 | 2.648.683 | -66,29 | -61,45 |
Sản phẩm từ cao su |
| 1.258.659 |
| 73,49 |
Sản phẩm gốm, sứ |
| 721.216 |
| 10,83 |
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm |
| 633.779 |
| 119,32 |
(Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Trong nửa đầu năm 2018, Lào tăng nhập khẩu sắt thép từ Việt Nam thay vì mặt hàng than đá như trong 6 tháng đầu năm 2017.
Với kim ngạch đạt gần 2 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2018 chiếm 1,7% tỷ trọng của cả nước, đưa nhóm hàng xơ sợi dệt vào top 20 mặt hàng đạt kim ngạch tỷ đô.
Điện thoại các loại và linh kiện là mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường Áo trong 6 tháng đầu năm 2018, chiếm 86,4% tổng kim ngạch.
Sau khi tăng mạnh cả lượng và trị giá kể từ tháng 3/2018 và mức tăng giảm dần cho đến nay tháng 6/2018 xuất khẩu hạt điều đã suy giảm trở lại.
Chính thức từ ngày 31/12/2018, tất cả tôm và bào ngư nhập khẩu vào Mỹ phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của Chương trình Giám sát nhập khẩu thuỷ hải sản nhập khẩu vào Mỹ (SIMP).
Mặc dù lượng sắn xuất khẩu sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng giá sắn xuất khẩu lại tăng mạnh 48,3% so với cùng kỳ, đạt 368,3 USD/tấn.
Than là nhóm hàng nhập khẩu tăng rất mạnh trong 6 tháng đầu năm 2018. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, lượng than nhập về Việt Nam tăng trên 61% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 10,34 triệu tấn, kim ngạch cũng tăng 83,9%, trị giá gần 1,21 tỷ USD.
Sau khi suy giảm cả lượng và trị giá trong tháng 5/2018, sang tháng 6 xuất khẩu mặt hàng xăng dầu đã lấy lại đà tăng trưởng, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong nửa đầu năm 2018 trên 1 tỷ USD.
Chiếm 19% thị phần nhóm hàng và 18,1% tỷ trọng, Trung Quốc tiếp tục là thị trường chủ lực cung cấp giấy cho Việt Nam trong nửa đầu năm 2018.
Xuất khẩu rau quả suốt mấy năm liền luôn tăng trưởng mạnh mẽ, tháng 7/2018, kim ngạch xuất khẩu rau quả ước đạt 290 triệu USD; lũy kế 7 tháng đầu năm 2018, giá trị xuất khẩu rau quả đạt 2,29 tỷ USD, bằng 57,25% mục tiêu cả năm. Còn 5 tháng nữa để các doanh nghiệp rau quả tăng tốc đưa giá trị xuất khẩu của ngành vươn tới con số 4 tỷ USD như kỳ vọng.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự