Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm từ cao su trong tháng 10 của cả nước đạt 63 triệu USD, tăng 11,7% so với tháng 9/2018, nâng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này 10 tháng 2018 lên 583,35 triệu USD, tăng 19,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy không phải là thị trường xuất khẩu chè chủ lực của Việt Nam, nhưng 10 tháng năm 2018 tốc độ xuất khẩu chè sang thị trường Philippines tăng mạnh vượt trội về lượng.
Theo tính toán số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, tháng 10/2018 xuất khẩu chè của cả nước tăng cả lượng và trị giá so với tháng 9 , tăng lần lượt 15,7% và 24% tương ứng với 12,2 nghìn tấn, tị giá 23,1 triệu USD, nâng lượng chè xuất khẩu 10 tháng 2018 lên 103,74 nghìn tấn, trị giá 174,45 triệu USD, giảm 10,1% về lượng và giảm 6,0% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017. Giá xuất khẩu bình quân tăng 4,42% đạt 1681,48 USD/tấn.
Trong số thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam, Pakistan luôn là thị trường dẫn đầu về lượng xuất, chiếm gần 27,2% thị phần, đạt 28,25 nghìn tấn, trị giá 61,55 triệu USD, tăng 12,53% về lượng và 14,63% trị giá so với cùng kỳ. Tính riêng tháng 10/2018 đã xuất khẩu 4,33 nghìn tấn chè các loại sang Pakistan, đạt 8,82 triệu USD, tăng 36,29% về lượng và 34,26% trị giá so với tháng 9/2018,nếu so với tháng 10/2017 cũng tăng 25,04% về lượng và 17,07% trị giá.
Đứng thứ hai về lượng xuất là thị trường Đài Loan (TQ) đạt 15,75 nghìn tấn, trị giá 24,41 triệu USD, tăng 7,52% về lượng và 6,21% trị giá so với cùng kỳ. Kế đến là thị trường Nga đạt 12,1 nghìn tấn, trị giá 18,41 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ xuất sang thị trường này đều sụt giảm cả lượng và trị giá, giảm lần lượt 17,18% và 10,95%, mặc dù giá xuất bình quân tăng 7,52% đạt 1521,39 USD/tấn.
Tuy có vị trí và khoảng cách địa lý gần với Việt Nam, thuận tiện trong việc giao thương hàng hóa, nhưng xuất khẩu chè sang Trung Quốc lục địa chỉ đứng thứ tư sau Pakistan, Đài loan (TQ) và Nga, chiếm 8,12% thị phần đạt 8,43 nghìn tấn, trị giá 14,8 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ giảm 8,4% về lượng tăng 24,42% trị giá. Tính riêng tháng 10/2018 đã xuất sang thị trường này 643 nghìn tấn, trị giá 3,29 triệu USD, tăng 77,62% về lượng và gấp hơn 2,6 lần (tức tăng 160,29%) về trị giá so với tháng 9/2018, nếu so với tháng 10/2017 thì lượng giảm 35,38% nhưng trị giá lại tăng gấp 2,1 lần (tức tăng 105,87%), giá xuất bình quân cũng tăng mạnh gấp 3,2 lần (tức tăng 218,57%) đạt 5131,3 USD/tấn.
Ngoài những thị trường kể trên, chè của Việt Nam còn xuất sang các quốc gia khác như: Ấn Độ, Hoa Kỳ, Saudi Arabia, Ba Lan, Ukraine….
Đặc biệt, nếu như cùng thời kỳ này năm trước xuất khẩu chè sang thị trường UAE tăng đột biến thì 10 tháng đầu năm nay lại sụt giảm, giảm 55,04% về lượng và 53,97% trị giá tương ứng với 2,65 nghìn tấn; 4,1 triệu USD thay vào đó là xuất sang thị trường Philippines tăng mạnh, 49,85% về lượng và 58,94% trị giá tuy chỉ đạt 511 tấn, thu về 1,3 triệu USD.
Nhìn chung 10 tháng 2018, tốc độ xuất khẩu chè sang các thị trường đều suy giảm, chiếm 52,94% và ngược lại thị trường với lượng tăng trưởng chiếm 47%, trong đó xuất sang UAE giảm nhiều nhất, kế đến là Thổ Nhĩ Kỳ giảm 49,25% về lượng và 54,99% trị giá so với cùng kỳ, tương ứng với 271 tấn, trị giá 546,4 nghìn USD.
Thị trường xuất khẩu chè 10 tháng năm 2018
Thị trường | 10T/2018 | +/- so với cùng kỳ 2017 (%)* | ||
Lương (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Pakistan | 28.254 | 61.559.434 | 12,53 | 14,63 |
Đài Loan | 15.750 | 24.413.912 | 7,52 | 6,21 |
Nga | 12.106 | 18.417.973 | -17,18 | -10,95 |
Trung Quốc | 8.430 | 14.833.509 | -8,4 | 24,42 |
Indonesia | 7.455 | 7.474.980 | -9,11 | 0,63 |
Hoa Kỳ | 5.252 | 6.274.482 | -4,35 | 0,09 |
Malaysia | 3.351 | 2.595.166 | 19,98 | 20,36 |
UAE | 2.652 | 4.104.599 | -55,04 | -53,97 |
Saudi Arabia | 1.650 | 4.260.570 | 36,82 | 43,6 |
EU | 1.273 | 3.077.589 | -11,04 | 7,37 |
Ukraine | 1.165 | 1.908.067 | 7,18 | 17,45 |
Ba Lan | 958 | 1.468.985 | -15,07 | -21,49 |
Ấn Độ | 672 | 637.870 | -59 | -65,95 |
Philippines | 511 | 1.305.507 | 49,85 | 58,94 |
Đức | 315 | 1.608.604 | 3,96 | 61,61 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 271 | 546.421 | -49,25 | -54,99 |
Kuwait | 17 | 46.008 | 13,33 | 13,92 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
THeo Vinanet.vn
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm từ cao su trong tháng 10 của cả nước đạt 63 triệu USD, tăng 11,7% so với tháng 9/2018, nâng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này 10 tháng 2018 lên 583,35 triệu USD, tăng 19,9% so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu thủy sản sang các thị trường trong 10 tháng đầu năm 2018 đạt 7,24 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu về Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2018 đạt 9,98 triệu tấn, giảm 5,4% so với 10 tháng đầu năm ngoái, nhưng kim ngạch lại tăng 14,4%, đạt 6,75 tỷ USD.
Tuy không phải là những nhóm hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ, nhưng nhóm hàng thủ công mỹ nghệ cụ thể là sản phẩm mây, tre tăng đột biến gấp 16,56 lần so với cùng kỳ năm 2017 tuy kim ngạch chỉ đạt 4,53 triệu USD.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, lượng gạo xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2018 ước đạt 5,25 triệu tấn, tương đương 2,64 tỷ USD, tăng 3% về khối lượng và tăng 15,7% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017. Giá xuất khẩu trung bình trong 10 tháng đầu năm 2018 đạt 503,9 USD/tấn, tăng 12,3% so với cùng kỳ.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng, trong 10 tháng đầu năm 2018 kim ngạch nhập khẩu thủy sản đã tăng 22,4% so với 10 tháng đầu năm 2017, đạt 1,41 tỷ USD.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, hàng hóa từ Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng 10/2018 tăng 8,8% kim ngạch so với tháng 9/2018, đạt 6,15 tỷ USD và cũng tăng 18,8% so với cùng tháng năm ngoái. Tính chung kim ngạch nhập khẩu trong 10 tháng đầu năm nay đạt 53,39 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy không phải là mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường Pakistan trong 10 tháng đầu năm nay nhưng thủy sản lại có tốc độ tăng mạnh vươn lên dẫn đầu về mức độ tăng trưởng.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 3,27 triệu tấn dầu thô, thu về 1,87 tỷ USD, giảm mạnh 44,6% về lượng và giảm 22,6% về kim ngạch so với 10 tháng đầu năm ngoái.
9 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Pháp đạt gần 2,8 tỷ USD, tăng 10,69% trong đó mặt hàng gạo có tốc độ tăng đột biến gấp gần 3 lần so với cùng kỳ 2017.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự