tin kinh te
 
 
 
rss - tinkinhte.com

Tin Việt Nam - tin trong nước đọc nhanh chiều 22-06-2016

  • Cập nhật : 22/06/2016

Trung Quốc sang tận ruộng kiểm tra gạo Việt

Bộ NN&PTNT vừa công bố nghị định thư về kiểm dịch thực vật đối với xuất khẩu gạo, cám Việt Nam (VN) sang Trung Quốc (TQ). Bên cạnh những thuận lợi thì các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu gạo Việt cũng lo ngại về những quy định khắt khe trong nghị định thư này.

Trung Quốc đồng ý mới được xuất

Nghị định thư nêu rõ các lô gạo xuất khẩu từ VN sang TQ phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu về kiểm dịch thực vật, không nhiễm chín đối tượng sinh vật gây hại như mối, mọt, sâu bệnh, vi sinh vật, khuẩn. DN Việt phải đăng ký mới được xuất khẩu gạo vào thị trường TQ. Ngoài ra, trước khi gạo được xuất khẩu, phía TQ sẽ tiến hành tiền kiểm tra các vùng trồng lúa, các kho của DN Việt. Nếu phía TQ đồng ý mới được xuất khẩu.

Nói về nghị định thư này, ông Nguyễn Văn Đôn, Giám đốc Công ty TNHH Việt Hưng, cho biết nghị định thư mang đến một số thuận lợi cho DN VN. “Yếu tố tích cực nhất là DN có quyền chọn lựa trong số chín đơn vị khử trùng trong nước đã được TQ xem xét, chấp thuận để kiểm dịch trong khi từ trước đến nay chỉ có một đơn vị khử trùng. Như vậy DN có thể chủ động hơn trong hoạt động xuất khẩu, giảm tính độc quyền, giảm được thời gian chờ khử trùng” - ông Đôn dẫn chứng.

Cũng theo ông Đôn, trước đây DN trong nước khi xuất gạo sang tới nước bạn rồi mới thực hiện các công đoạn kiểm dịch, khử trùng thì nay thực hiện ngay tại VN. “Điều này có thể giúp giảm chi phí, giảm thiểu rủi ro cho DN Việt” - ông Đôn nói.

Tổng Thư ký Hiệp hội Lương thực VN (VFA) Huỳnh Minh Huệ thông tin thêm, việc áp dụng nghị định thư này có thể sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy xuất khẩu chính ngạch sang TQ.

dn viet khong nen qua phu thuoc vao thi truong tq nham giam rui ro. trong anh: nong dan thu hoach lua tai dbscl. anh: qh

DN Việt không nên quá phụ thuộc vào thị trường TQ nhằm giảm rủi ro. Trong ảnh: Nông dân thu hoạch lúa tại ĐBSCL. Ảnh: QH

Vẫn nhiều lo ngại

Tuy có một số thuận lợi nhưng nhiều DN vẫn lo lắng vì một số quy định rất ngặt nghèo trong nghị định thư. “DN xuất khẩu gạo phải tuân thủ các quy định về dịch hại rất khắt khe của phía TQ. Ví dụ, một lô gạo 60 tấn chỉ cần phát hiện một con dịch hại thì cả lô sẽ bị kết luận nhiễm bệnh” - ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật thuộc Bộ NN&PTNT, cảnh báo.

Ông Nguyễn Thanh Long, Giám đốc Công ty Gạo Việt, cũng cho rằng nghị định thư gây áp lực lớn cho DN gạo trong nước. Bởi nếu vi phạm, DN có thể bị cấm xuất sang TQ và ảnh hưởng chung đến cả ngành khi xuất khẩu sang thị trường này. Như vậy, DN này vi phạm nhưng DN khác cũng có thể bị ảnh hưởng, tức thiếu công bằng.

Ở khía cạnh khác, Giám đốc Công ty TNHH Việt Hưng Nguyễn Văn Đôn lo lắng về bông cỏ trong sản phẩm gạo tấm. Bởi nếu làm gạo 5% tấm thì có thể kiểm soát được bông cỏ lẫn vào nhưng với tấm thì khó tránh khỏi. Do vậy, nhiều DN sẽ không dám bán mặt hàng tấm vì dễ dính bông cỏ.

Đại diện một DN xuất khẩu gạo nhìn nhận nghị định thư này mang tính “kỹ thuật” để nước nhập khẩu kiểm soát ở thế “kèo trên” với nước xuất khẩu. Theo đó, nếu nước nhập không muốn nhập gạo thì họ chỉ cần siết chặt các quy định bởi họ nắm đằng chuôi và có quyền quyết định.

“Nước nhập quá nhiều quyền lợi trong khi DN Việt bị động. Do vậy, các cơ quan chức năng cần đàm phán với phía TQ để làm sao hài hòa lợi ích các bên. Chẳng hạn nếu phát hiện lô gạo nào vi phạm về dịch hại thì không dừng ngay hoạt động nhập khẩu, thay vào đó cảnh báo để DN Việt khắc phục. Sau đó nếu tái phạm mới cấm” - đại diện DN này đề nghị.

Một số chuyên gia ngành gạo cũng cho rằng thông qua nghị định thư này TQ muốn kiểm soát chặt chẽ số lượng gạo nhập khẩu chính ngạch, siết chặt và hạn chế việc nhập khẩu qua đường tiểu ngạch. Do vậy gạo Việt xuất sang TQ khó có thể tăng, thậm chí giảm số lượng. Thế nên DN Việt cần phân bổ thị trường xuất khẩu hợp lý, tránh phụ thuộc quá lớn vào thị trường TQ nhằm giảm rủi ro.(PLO)

Trung Quốc chiếm hơn 36% thị phần gạo Việt

Hiện TQ là thị trường nhập gạo lớn nhất của VN, chiếm trên 36% tổng lượng gạo xuất khẩu chính ngạch. Nếu tính thêm lượng gạo xuất tiểu ngạch thì có thời điểm thị trường TQ chiếm trên 50%.

Riêng trong năm tháng đầu năm nay, xuất khẩu gạo Việt sang thị trường TQ đạt trên 700.000 tấn với giá trị hơn 325 triệu USD. Con số này tăng 10% về khối lượng và tăng 24% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Đại diện một DN cho hay dù được xông trùng, kiểm dịch tại VN nhưng khi gạo đến TQ, họ tiếp tục kiểm dịch lại. Qua đó nếu phát hiện gạo có sinh vật gây hại thì DN Việt lại phải tốn thêm chi phí để khắc phục.

 


Chi sai cả nghìn tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ

Kiểm toán Nhà nước vừa kiến nghị giảm trừ, xử lý tài chính hơn 1.000 tỷ đồng tiền vốn trái phiếu Chính phủ chi không đúng quy định ở các bộ ngành, địa phương.

Kiểm toán Nhà nước gần đây đã có báo cáo gửi Thủ tướng kết quả kiểm toán Chuyên đề phát hành, quản lý và sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu (TPCP) năm 2014.

Số liệu cho thấy trong năm này, Chính phủ huy động được khoảng 248.000 tỷ đồng (khoảng 11 tỷ USD) từ trái phiếu. Tổng số tiền được phân bổ sau đó là gần 99.550 tỷ, trong đó chi cho giao thông hơn 56.700 tỷ, thủy lợi hơn 17.300 tỷ, còn lại cho y tế, tái định cư, xây dựng nông thôn mới... Nguồn vốn này được đánh giá đã đóng góp tích cực thúc đẩy kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng của cả nước.

Tỷ lệ phát hành vốn TPCP vẫn có kỳ hạn ngắn, nhất là kỳ hạn dưới 3 năm gây áp lực trả nợ lớn trong thời gian tới nếu sử dụng không hiệu quả. Năm 2014, TPCP có kỳ hạn dưới 3 năm lên tới 133.804 tỷ đồng, chiếm gần 54% trong khi năm 2013 tỷ lệ này là hơn 80%. 

Tuy nhiên, Kiểm toán đã chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế trong quản lý, sử dụng vốn vay, từ khâu xây dựng nhu cầu vốn, phân bổ - điều chỉnh kế hoạch, đến khâu giải ngân, quyết toán và quản lý dự án...Nhiều vấn đề phổ biến được đưa ra trong báo cáo như xây dựng vốn vượt kế hoạch, xác định nhu cầu chưa phù hợp, nhiều dự án được giải ngân số tiền lớn hơn so với thực chi. Thậm chí, các địa phương còn xây dựng dự án không thuộc danh mục được sử dụng vốn TPCP, dùng nguồn này để đối ứng cho dự án ODA không đúng đối tượng…

cac du an giao thong thuong lap ke hoach chenh von lon hon so voi thuc te. anh:ttxvn

Các dự án giao thông thường lập kế hoạch chênh vốn lớn hơn so với thực tế. Ảnh:TTXVN

Tình trạng này xảy ra ở nhiều địa phương và một số bộ, ngành... Như một số tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng kế hoạch, phân bổ vốn được báo cáo chỉ ra:

Dự án Địa phương Tồn tại, hạn chế
Dự án kè sông Cổ Chiên Vĩnh Long Kế hoạch vốn 1.417 tỷ đồng nhưng mức vốn TPCP cho phép chỉ 1.000 tỷ đồng
Dự án kè sông Cần Thơ Cần Thơ Vốn chưa phân bổ vẫn còn 108 tỷ đồng nhưng tiếp tục đăng ký lên 211 tỷ đồng
Xây dựng kế hoạch vốn giai đoạn 2012-2015 và bổ sung 2014-2016 Cần Thơ Chi vượt 289 tỷ đồng so với nhu cầu vốn
Dự án Mường La - Mù Cang Chải Yên Bái Chính phủ phê duyệt tổng mức đầu tư gần 324 tỷ đồng trong khi địa phương chỉ dùng hết gần 300 tỷ đồng, dư 24 tỷ
Dự án Trạm Tấu - Bắc Yên Yên Bái Giải ngân vượt 5,2 tỷ đồng, sau đó phải điều chuyển sang dự án khác
Dự án xây dựng cầu và đường kênh Bạc Liêu Dự toán hết 3,4 tỷ song được Trung Ương giao 5,4 tỷ đồng
Dự án đầu tư xây dựng luồng cho tàu trọng tải lớn ở sông Hậu   Lập kế hoạch 1.885 tỷ đồng song thực tế chỉ hết 622 tỷ
Hầm Đèo Cả   Kế hoạch 449 tỷ nhưng chỉ giải ngân hết 236 tỷ đồng
Dự án đường Hồ Chí Minh đoạn Củ Chi – Đức Hòa, Thạnh Hóa – Mỹ An   Kế hoạch vốn 230 tỷ song thực tế chỉ hết 100 tỷ đồng
5 dự án trên Quốc lộ 1    Vốn đầu tư xác định ban đầu là 4.868 tỷ đồng nhưng khi thực hiện đã giảm xuống 817 tỷ
20 dự án giao thông khác được đầu tư theo văn bản 9273 của Bộ Giao thông   Mức đầu tư giảm xuống 1.387 tỷ trong khi dự kế hoạch 4.869 tỷ đồng
Dự án đường Nậm Khao - Tà Tống Lai Châu Đã hoàn thành năm 2012 nhưng vẫn chưa thu hồi 146 tỷ đồng tạm ứng

Đối với việc sử dụng vốn được phân bổ, nhiều vấn đề khác cũng được kiểm toán nêu ra, như việc tỉnh Điện Biên mua sắm trang thiết bị không đúng theo quy định, lãng phí 27 tỷ đồng. Tỉnh này còn nghiệm thu, thanh toán sai khối lượng, đơn giá tại hầu hết các dự án được kiểm toán chi tiết với tổng số tiền 510 tỷ đồng.

Tỉnh Tiền Giang cũng bố trí cho dự án Phòng khám đa khoa Thị trấn Cai Lậy vượt 167 tỷ so với tổng vốn hỗ trợ. Dự án đường đến trung tâm xã Định An của tỉnh Trà Vinh cũng vượt 151 tỷ đồng. 

Kiểm toán Nhà nước còn chỉ ra nhiều vi phạm trong quá trình thẩm định, phê duyệt dự toán và lựa chọn nhà thầu. Công tác phê duyệt giá gói thầu, trùng lắp khối lượng, sai đơn giá… dẫn đến xác định giá trúng thầu không chính xác. Nhiều nhà thầu không đáp ứng năng lực vẫn trúng thầu dẫn đến dự án phải thay đổi nhà thầu nhiều lần. Một số hợp đồng được ký trọn gói song trong điều khoản của hợp đồng cho phép điều chỉnh giá…

Công tác giám sát quản lý chất lượng công trình cũng có nhiều tiêu cực như nghiệm thu cả khối lượng chưa thực hiện, vật liệu sử dụng không đủ tiêu chuẩn, sai sót về khối lượng, đơn giá…

Với kết quả nêu trên, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện nhiều điểm sai và tiến hành giảm trừ khoảng 510 tỷ đồng, gồm sai khối lượng (268 tỷ), sai đơn giá (79,3 tỷ)... Tính đến cuối năm 2015, nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn vốn TPCP là 5.052 tỷ đồng.

Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước đề nghị Chính phủ xử lý tài chính 807 tỷ đồng, trong đó thu hồi nộp ngân sách 39,3 tỷ, giảm thanh toán 176 tỷ, giảm giá gói thầu 157 tỷ, bố trí hoàn trả vốn TPCP 248 tỷ, hủy kế hoạch vốn 41,3 tỷ đồng và xử lý khác 143 tỷ.

Đồng thời, cơ quan này cũng đề nghị nhà điều hành chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương làm rõ trách nhiệm các tập thể, cá nhân để xử lý sai phạm. Bộ Kế hoạch & Đầu tư có trách nhiệm trong việc trình Chính phủ phân bổ kế hoạch vốn cho các dự án không có trong danh mục được sử dụng vốn trái phiếu, kế hoạch vốn dàn trải, không phù hợp nhu cầu đăng ký vốn... Ngoài ra, một số địa phương có sai phạm cũng cần được kiến nghị xử lý nghiêm.

Nhiều năm qua, TPCP là một kênh huy động vốn quan trọng cho Nhà nước, số vốn huy động ngày càng lớn. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, lượng vốn TPCP phát hành giai đoạn 2010-2015 đạt tổng cộng 846.926 tỷ đồng.

Thực tế nguồn vốn này rất lớn nhưng nếu đầu tư không hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát sẽ trở thành gánh nặng nợ công cho cả nền kinh tế. Bình quân mỗi người dân Việt Nam hiện gánh khoảng 30 triệu đồng nợ công. Năm 2016 dự kiến phát hành 220.000 tỷ đồng trái phiếu trong tổng số 409.000 tỷ đồng vốn vay. Mục đích chủ yếu là bù đắp cho bội chi ngân sách 254.000 tỷ đồng, chi cho đảo nợ 95.000 tỷ lớn hơn cả cho đầu tư phát triển là 60.000 tỷ đồng. Một khi Chính phủ phải tăng vay để trả nợ, nguồn vốn cho đầu tư phát triển ngày càng hạn chế. 

Dự báo của Ngân hàng Thế giới đến năm 2016, nợ công của Việt Nam sẽ tăng lên mức 63,8% GDP, năm 2017 là 64,4%, năm 2018 lên 64,7%.(VNEX)


Đề xuất 2 phương án giảm thuế phổ thông cho DN nhỏ và vừa

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có thể được giảm mức thuế phổ thông từ 20% hiện nay xuống còn 15-17%.

Bộ Tài chính vừa đưa ra dự thảo tờ trình Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 35/2016 của Chính phủ về một số giải pháp thuế nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho DN, đẩy mạnh sự phát triển DN.

Theo đó, Bộ Tài chính cho hay, để tiếp tục khuyến khích DNNNVV phát triển và lớn mạnh hơn nữa, trên cơ sở cân đối NSNN năm 2016 và 2017, Bộ Tài chính đưa ra phương án đề xuất Chính phủ trình QH. Theo đó, bổ sung quy định giảm thuế suất phổ thông áp dụng cho đối tượng DN này với hai phương án: Phương án 1, áp dụng thuế suất phổ thông 17% từ 1-1-2016 đến hết năm 2020 cho DNNVV. Phương án 2, áp dụng thuế phổ thông 15% từ 1-1-2016 đến 2020. Mức thuế phổ thông hiện nay đang áp dụng là 20%.

Theo Bộ Tài chính, các phương án trên dự kiến sẽ giảm thu ngân sách năm 2016 và các năm tiếp theo nhưng sẽ được bù đắp tăng thu từ các loại thuế gián thu và thuế TNCN. Đặc biệt việc giảm thuế này sẽ góp phần tạo điều kiện cho các DN tái đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, từ đó tăng thu từ thuế TNDN vào giai đoạn tiếp theo.

Bên cạnh đó, việc giảm thuế suất phổ thông đối với DNNVV sẽ đảm bảo tính cạnh tranh, hấp dẫn thu hút dầu tư so với các nước khác.  Tiêu chí xác định DNNVV được áp dụng giảm thuế là DN có tổng doanh thu năm trước liền kề không quá 20 tỉ đồng.

Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đề xuất phương án giảm thuế TNDN cho các DN khởi nghiệp mới thành lập có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi hoặc tại các khu vực kém phát triển, nông thôn, vùng sâu, vùng xa: áp thuế TNDN 10% trong 15 năm; miễn thuế trong 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với dự án mới.


Nguy cơ trắng tay vì dốc vốn làm nông sản sạch

Bỏ ra tiền tỷ để làm rau, gạo hữu cơ, thịt lợn sạch một cách bài bản, nhưng không ít nhà đầu tư đang đau đầu vì sản phẩm làm ra ít được người tiêu dùng quan tâm.

Ông Nguyễn Thanh Quang, chủ một trang trại heo ở Hà Nội rất tâm huyết với việc cung cấp thịt heo sạch nên đã đầu tư khá bài bản. Nhưng bắt tay vào làm được thời gian ngắn thì gặp nhiều khó khăn nảy sinh. Cụ thể, khi ông mổ heo để bán thịt ra thị trường thì chỉ có thịt 3 chỉ, sườn thăn, thịt chân giò là được đặt hàng nhiều, còn thịt vai, thịt thăn mua rất lác đác. Riêng thịt mông, thịt thủ, mỡ và lòng lợn hầu như không bán được. Ông Quang đã phải mua máy để làm ruốc, giò lụa, mỡ nước nhưng cũng không cải thiện được tình hình. Trong khi đó, đàn lợn không thể nuôi thêm vì cân nặng vượt quá mức cho phép. Chưa kể công mổ lợn, pha phách, đóng túi hút chân không và công giao hàng tận tay người dùng. 

khach hang chi ua chuong suon than khien trang trai heo sach cua ong quang gap kho. anh: tq.

Khách hàng chỉ ưa chuộng sườn thăn khiến trang trại heo sạch của ông Quang gặp khó. Ảnh: TQ.

“Dù rất hăng hái trong việc cung ứng thực phẩm sạch nhưng người tiêu dùng Việt không nhiệt tình với sản phẩm của tôi. Họ thà ra chợ cóc gần nhà để mua vài lạng thịt tươi hàng ngày (không rõ nguồn gốc) còn hơn là mua thịt lợn sạch được đóng trong túi hút chân không và đã qua cấp đông, nên buộc tôi phải xuất hết lứa lợn qua Trung Quốc”, ông Quang chia sẻ và cho biết thêm, với kênh siêu thị, dù nhiều nhà phân phối đặt vấn đề thu mua nhưng họ cũng gặp không ít khó khăn như nhu cầu của người tiêu dùng, hàng loạt giấy chứng nhận, tem… Mặt khác, muốn có loại giấy này phải tốn hàng chục triệu đồng, vì thế giá thịt lợn sạch bán trong siêu thị buộc phải lên đến 192.000 đồng một kg. Trước nhiều thách thức, ông Quang đang rất băn khoăn về việc có nên tiếp tục kinh doanh thực phẩm sạch trong thời gian tới hay không. Bởi theo ông, nếu tiếp tục  kinh doanh với cách thức làm cũ sẽ lỗ. 

Không chỉ thịt, mà rau củ quả sạch cũng kén người tiêu dùng. Chia sẻ vớiVnExpress, chị Nguyễn Thị Huyền (Hà Nội) người sở hữu 2ha trang trại trồng rau quả hữu cơ (organic) cho biết, bỏ ra 5 tỷ đồng đầu tư trồng rau củ quả sạch, tuy nhiên sản phẩm làm ra tiêu thụ khó vì giá thành cao, mẫu mã không được bắt mắt. 

Chị đã từng vui khi mồng tơi, dưa chuột... lên xanh tốt, tự kháng cự được sâu bệnh, sản lượng cao nhưng khi bán ra thị trường người mua lại chê giá đắt. Ban đầu tặng họ dùng thử thì khen ngon, nhưng khi bán lại bị chê đủ điều. Có những đợt chị phải giảm giá 50-60% mới bán hết.

Với mong muốn có đầu ra tốt cho sản phẩm, chị Huyền tiếp tục giới thiệu đến mọi người, rồi tổ chức tham quan mô hình. Không ít các chủ nhà hàng lên vườn rau của chị đều khen rau ngon, sạch, đủ dinh dưỡng..., nhưng khi chuẩn bị thoả thuận hợp đồng, họ lại mặc cả mức giá tương đương giá của các quầy rau ngoài chợ tạm.

Cụ thể, dưa chuột 7.000 đồng một kg, mồng tơi 4.000 đồng. Theo chị Huyền, mức giá này quá thấp vì sở dĩ khi trồng dưa chuột, chị phải chọn giống tốt, nhất là dưa chuột hạt lép, quy trình lại gắt gao, thời gian thu hoạch lâu nên nếu bán ra thị trường phải ở mức 60.000 đồng một kg. Do vậy, sản phẩm chị làm ra mới chỉ đáp ứng được số lượng rất nhỏ những người am hiểu và sẵn sàng chi tiền cho thực phẩm sạch. 3 năm nay chị vẫn chưa thể hòa vốn. Do vậy, thời gian tới chị Huyền sẽ thu hẹp quy mô và chỉ còn trồng với diện tích đủ cung cấp cho khoảng 300 khách hàng thân thiết.

Không chỉ trồng rau củ, thịt sạch gặp khó mà các sản phẩm gạo hữu cơ ở thị trường trong nước cũng ít được đón nhận. Trước đó, chia sẻ vớiVnExpress, ông Võ Minh Khải - Giám đốc Công ty cổ phần thương mại và sản xuất Viễn Phú cho biết, tới nay thị trường Việt vẫn chưa nhiều khách hàng sẵn sàng chi tiền để mua sản phẩm gạo hữu cơ. 70% hàng của công ty ông được xuất sang thị trường Anh, Nga, Singapore, Pháp, Đức, còn nội địa chỉ chiếm khoảng 30%. 

Mặc dù được thị trường xuất khẩu ưa chuộng, nhưng với chi phí đầu tư cao, dự án gạo hữu cơ của công ty ông Khải vẫn gặp nhiều khó khăn. Mới đây, Viễn Phú đã  phải tiến hành tìm đối tác chiến lược để hỗ trợ phát triển sau khi “rao” bán 320ha đất dự án nông nghiệp hữu cơ nhằm giúp thương hiệu đến gần hơn với người tiêu dùng.


(

Tinkinhte

tổng hợp)
Trở về

Bài cùng chuyên mục