Tập đoàn Dầu khí, Điện lực, Than – Khoáng sản, Hàng hải, Sông Đà… là những cái tên dẫn đầu trong danh sách vay nợ tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.

Hơn 1.400 nghìn tỷ đồng là số tiền mà Chính phủ đã sử dụng từ nguồn vốn vay trong và ngoài nước để đưa vào cân đối ngân sách nhà nước (NSNN), phục vụ đầu tư phát triển trong giai đoạn 2010-2015.
Để tránh những rủi ro về nợ công, các chuyên gia tài chính khuyến nghị, cần có tầm nhìn dài hạn trong quản lý và sử dụng nợ công theo hướng giảm dần huy động vốn ODA, tiến tới tăng vay ưu đãi và vay thương mại.
Tại hội thảo "Đánh giá Luật Quản lý nợ công sau 5 năm thực hiện", do Bộ Tài chính và Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức mới đây tại Hà Nội, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại Trương Hùng Long cho biết: Trong giai đoạn 2010-2015, tổng vốn vay Chính phủ đưa vào cân đối NSNN cho đầu tư phát triển đạt trên 1.400 nghìn tỷ đồng, trung bình đạt 7% GDP, tăng 14%/năm.
Việc trả nợ đến hạn hằng năm đã góp phần tăng cường hệ số tín nhiệm quốc gia. Đặc biệt trong giai đoạn này, chỉ tiêu về nợ công nằm trong giới hạn quy định.
Cụ thể: Nợ công cuối năm 2014 ở mức 2.347 nghìn tỷ đồng, bằng 59,6% GDP. Dự kiến cuối năm 2015, nợ công đạt khoảng 62,3% GDP. Mức nợ công này vẫn nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép - không quá 65% GDP.
Luật Quản lý nợ công ra đời đã góp phần phát triển thị trường trái phiếu trong nước. Quy mô thị trường tăng từ mức 2,8% GDP (năm 2001) lên mức 19% GDP vào năm 2011 và 21,2% GDP vào năm 2014. Riêng thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng 19% GDP năm 2014.
Luật Quản lý nợ công cũng đã tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, từng bước công khai, minh bạch hóa hoạt động vay, trả nợ công, tạo môi trường pháp lý quan trọng cho việc huy động nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển KT-XH.
Từ nguồn vay trong và ngoài nước, nhiều dự án lớn phục vụ đầu tư phát triển đã được thực hiện. Nguồn vốn này đã góp phần hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương giải quyết trực tiếp các vấn đề cấp bách, cũng như thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, phát triển kinh tế và các chính sách an sinh xã hội.
Mặc dù việc quản lý và kiểm soát nợ công được thực hiện khá chặt chẽ song trên thực tế vẫn còn một số tồn tại như: Phạm vi nợ công chưa hài hòa với thông lệ quốc tế, sự chồng chéo giữa các khoản nợ, phạm vi nợ công, trần nợ công hay mối quan hệ giữa quản lý nợ công và chính sách tài khóa…
Để tháo gỡ những bất cập này, các chuyên gia tài chính cho rằng, trước hết hoàn thiện chính sách quản lý nợ công nhằm tăng cường huy động vốn phục vụ mục tiêu cân đối NSNN và đầu tư phát triển KT-XH.
Bên cạnh đó, cần làm rõ hơn quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và đơn vị đang sử dụng nợ công.
Ông Thomas Magunusson, chuyên gia tư vấn của WB cũng cho rằng, việc phải vay nợ nhiều hơn theo các điều khoản thương mại sẽ mở ra nhiều phương án vay nợ và nhiều công cụ tài chính.
Trong môi trường như thế, điều kiện chính là phải có chiến lược vay nợ bài bản. Nếu thiếu thận trọng khi hoạch định chiến lược, có thể dễ dàng dẫn tới những lựa chọn không tốt và làm tăng rủi ro. Để thực hiện điều này, cần có tầm nhìn dài hạn, nhằm xác định các mục tiêu quản lý nợ công.
Theo Bộ Tài chính, để quản lý nợ công hiệu quả, trong giai đoạn tới, Bộ tiếp tục tập trung quản lý chặt chẽ vốn vay trong nước và nước ngoài, nhất là các khoản vay mới, bảo đảm các khoản vay trong giới hạn cho phép và giữ vững an toàn tài chính quốc gia.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính sẽ đẩy mạnh rà soát, hoàn thiện thể chế, sửa đổi bổ sung Luật NSNN, Luật Quản lý nợ công, quản lý nợ trung hạn... Trên cơ sở đó, sẽ giám sát nợ công theo chương trình quản lý nợ trung hạn, có tính đến xu hướng giảm dần huy động vốn ODA, tiến tới tăng vay ưu đãi và vay thương mại.
Tập đoàn Dầu khí, Điện lực, Than – Khoáng sản, Hàng hải, Sông Đà… là những cái tên dẫn đầu trong danh sách vay nợ tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Làm thế nào để các DNNVV Việt Nam “tương thích” với những tác động của môi trường kinh tế toàn cầu mới? Đây là câu hỏi mà bản thân các DN Việt cũng như những chuyên gia và nhà hoạch định chính sách luôn quan tâm.
Việc Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và Luật Đầu tư (sửa đổi) chính thức có hiệu lực từ đầu tháng 7 vừa qua được cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng là một cuộc đột phá thể chế lần thứ hai. Tuy nhiên, sau gần 2 tháng thực hiện, hai luật này vẫn không tránh khỏi các vướng mắc phát sinh...
Nếu tăng trưởng cứ mãi “lẹt đẹt” 5%/năm thì kinh tế Việt Nam khó theo kịp các nước trong khu vực.
Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 8 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,9% so với cùng kỳ năm 2014.
Ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng chỉ nên tăng 10% lương tối thiểu, đồng quan điểm với VCCI và con số thấp hơn 6% so với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đưa ra.
GDP bình quân đầu người của Việt Nam đang thụt lùi so với Hàn quốc khoảng 30-35 năm, Malaysia khoảng 25 năm, Thái Lan khoảng 20 năm, Indonesia và Philippines khoảng 5-7 năm.
Thuế và phí, chiếm 26,3% GDP trong tổng thu ngân sách (2007-2011), đã giảm xuống còn 19,7% (2014), và sẽ còn tiếp tục giảm khi Việt Nam thực hiện đầy đủ hơn 10 cam kết hội nhập theo các hiệp định thương mại tự do (FTA).
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức hội thảo nhằm đánh giá kết quả quá trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế Việt Nam từ năm 2011 đến 2014. Rất nhiều quan điểm cho rằng, tái cơ cấu phải gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng mới bảo đảm phát triển kinh tế bền vững.
Đối với thị trường Trung Quốc, nhiều sản phẩm của nước này đang cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam. Còn Hàn Quốc và Nhật Bản là thị trường xuất khẩu nông sản tiềm năng, nhưng khó tính do yêu cầu cao và khắt khe trong các quy định về SPS, TPT…
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự