tin kinh te
 
 
 
rss - tinkinhte.com

Tin kinh tế đọc nhanh tối 17-08-2016

  • Cập nhật : 17/08/2016

Nền kinh tế Nga đang cho thấy nhiều dấu hiệu phục hồi

Tờ Bloomberg vừa có bài viết dự báo sự tăng trưởng của nền kinh tế Nga trong thời gian tới.

Theo Bloomberg, nền kinh tế Nga đang cho thấy nhiều dấu hiệu phục hồi. Theo đó, các doanh nghiệp đã tăng cường ở Nga, nhu cầu về điện và khối lượng vận chuyển container đường sắt tăng lên, điều này cho thấy nhịp kinh tế Nga bắt đầu trở nên nhanh hơn.

Tăng trưởng GDP cũng trở nên tích cực, theo ước tính gần đây, trong quý vừa qua, GDP giảm 0,8% so với năm trước, đây là con số thấp nhất kể từ đầu năm 2015 khi suy thoái bắt đầu với Nga.

Cải thiện dự báo khuấy động sự quan tâm của giới đầu tư đối với Nga, Bloomberg ghi nhận. Trong quý mới đây, đồng rúp cho thấy 2 kết quả trong số các đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi, tăng 4,8% so với đồng đôla Mỹ.
Sự biến động của đồng rúp đang ở mức thấp nhất hai năm qua, và đầu tháng tám các nhà đầu tư đã đặt giá thầu trên các chứng khoán nợ chính phủ, vượt quá bốn lần khối lượng cung ứng.
Nếu không có những cú sốc bất ngờ, trong quý III/2016, GDP của Nga sẽ tăng trưởng 0,4% so với kỳ báo cáo trước đó, Ngân hàng Trung ương dự đoán.

Liệu thế giới có xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng mới?

Thế giới có thể đang đứng bên bờ vực của một cuộc khủng hoảng mới với những dấu hiệu đang khá rõ ràng. Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính tỷ lệ nợ xấu trên tổng các khoản cho vay trong năm 2015 đã đạt 4,3%. 
Trước khi cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ toàn cầu xảy ra năm 2009, con số này chỉ là 4,2%. 
Thậm chí, tình hình hiện nay còn đang diễn ra theo chiều hướng tiêu cực hơn so với khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 2009. Hiện có hơn 3.000 tỷ USD nợ xấu trên toàn cầu, so với con số xấp xỉ 1.000 tỷ USD tín dụng thế chấp dưới chuẩn đã dẫn tới khủng hoảng tài chính-tiền tệ toàn cầu năm 2009. 
Các ngân hàng châu Âu đang “gánh” 1.300 tỷ USD nợ xấu, trong đó gần 400 tỷ USD nợ xấu thuộc về Italy. Monte dei Paschi di Siena (MPS) và một số ngân hàng đang gặp khó khăn của Italy đang tìm cách “lôi kéo” các ngân hàng đầu tư bằng việc chào mời cơ hội kiếm lời hấp dẫn.
Tuy nhiên, hiện các nhà đầu tư đang tỏ ra thờ ơ với việc tham gia vào kế hoạch của MPS, do lịch sử thất bại trong các chương trình hành động của MPS, những điều kiện thiếu chắc chắn trên thị trường và mối lo ngại gia tăng về nền kinh tế lớn thứ ba Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone) sa sút. 
Còn tại châu Á, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính các khoản tín dụng có rủi ro ở Trung Quốc cũng lên tới 1.300 tỷ USD, mặc dù những dự đoán của các tổ chức tư nhân đưa ra còn cao hơn con số này. Trong khi đó, các khoản cho vay có rủi ro “bay hơi” của Ấn Độ là 150 tỷ USD. 
Đáng chú ý là các ngân hàng ở Mỹ, Canada, Vương quốc Anh và một số nước châu Âu, châu Á, Australia và New Zealand lại tiếp tục lún sâu vào các thị trường bất động sản thường bị định giá quá mức. 
Ngoài ra, các ngân hàng cũng cung cấp khá nhiều tín dụng cho lĩnh vực khai thác tài nguyên, khoáng sản đang gặp không ít khó khăn. Chỉ riêng các khoản tín dụng dành cho lĩnh vực năng lượng trên toàn cầu ước đã lên tới khoảng 3.000 tỷ USD. 
Những người đi vay đang gặp khó khăn trong việc trả lãi vay trong một môi trường sản xuất-kinh doanh mà giá hàng hóa đang giảm, tăng trưởng yếu kém, dư cung kéo dài, chi phí đi vay tăng và trong một số trường hợp là đồng tiền suy yếu.
Tình hình càng trở nên nghiêm trọng khi đà hồi phục ì ạch của nền kinh tế thế giới kể từ năm 2009 đang góp thêm các khoản nợ xấu. 
Tại các nền kinh tế phát triển, tăng trưởng thấp và thiểu phát đang khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong việc trả nợ. Nhiều công ty châu Âu đang đối mặt với tình trạng sức cạnh tranh suy giảm trên thị trường toàn cầu và vấn đề càng trầm trọng hơn do tác động tiêu cực của đồng euro. 
Những nỗ lực của chính phủ nhằm khôi phục tăng trưởng, phần lớn thông qua một sự tăng cường nguồn cung tín dụng ngân hàng có chủ đích, đang dẫn tới các tác động nguy hiểm. 
Với các tài sản an toàn mang về nguồn thu nhập thấp, các ngân hàng đã cấp tín dụng cho những đối tượng đi vay có độ tín nhiệm thấp hơn so với trước đây, nhất là đối với ngành công nghiệp dầu khí đá phiến và các thị trường mới nổi. Nguồn thanh khoản dồi dào đã đẩy giá tài sản tăng và các ngân hàng đã cho vay dựa trên các tài sản thế chấp được định giá quá cao. 
Mức lãi suất thấp cho phép các đối tượng đi vay có mức tín nhiệm thấp có thể “tồn tại” lâu hơn, qua đó chỉ giúp kéo dài hơn khoảng thời gian dẫn tới hệ quả tất yếu là phải giảm hay xóa nợ cho họ. 
Còn ở các nền kinh tế đang phát triển, các nhà đầu tư với dòng vốn mạnh đã góp phần làm gia tăng rủi ro khi họ tìm kiếm nguồn thu nhập cao hơn hay tránh các đồng tiền giảm giá, Chính sách của các chính phủ đang khuyến khích đầu tư hay tiêu dùng dựa trên nguồn vốn vay để kích thích nhu cầu hiện đang èo uột. 
Tuy vậy, điều đáng lo ngại nhất trên thực tế là các giải pháp truyền thống để ứng phó với các cuộc khủng hoảng ngân hàng dường như là “không còn trong tư thế sẵn sàng và mang lại hiệu quả như trước đây.”
Để vượt qua giai đoạn khó khăn, các ngân hàng cần mức lợi nhuận cao, bơm vốn, một tiến trình tái cơ cấu các khoản tín dụng xấu và cải cách đối với các ngành nghề. Các nhà phân tích đánh giá năng lực của các ngân hàng để thoát khỏi khó khăn và xóa nợ hiện này là khá hạn chế. 
Chính sách tiền tệ hiện tại được cho là một phần nguyên nhân gây ra tình trạng đáng lo ngại kể trên. Chính sách lãi suất 0% hoặc ở mức âm đang kéo lãi suất cho vay ngân hàng xuống nhiều hơn so với lãi suất huy động - vốn không thể bị cắt giảm do nhu cầu duy trì nguồn tiền gửi tiết kiệm và tuân thủ các yêu cầu theo quy định đối với nguồn vốn ổn định. 
Thông thường, các ngân hàng tích lũy vốn bằng nguồn thu nhập từ chênh lệch lãi suất tiền gửi thấp và các tài sản có mức lãi suất ổn định dài hạn, an toàn hơn như trái phiếu chính phủ. Tuy vậy, hiện nay sự chênh lệch giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn đã giảm mạnh. 
Thu hút nguồn vốn mới đòi hỏi triển vọng dài hạn của lĩnh vực ngành nghề đó phải sáng sủa. Ngược lại, một số yếu tố mang tính cơ cấu đang gây ra những bất ổn đối với tương lai của ngành ngân hàng và có thể làm giảm các khoản lợi nhuận hiện có trong dài hạn. 
Các mô hình hoạt động ngân hàng ở một số quốc gia cần có sự cải cách mạnh mẽ, mà đầu tiên là củng cố hoạt động và cắt giảm chi phí. Nhiều quốc gia có các ngân hàng cần hỗ trợ vẫn còn chưa “cởi mở” về vấn đề người nước ngoài sở hữu tài sản với vốn và kinh nghiệm chuyên môn có thể giúp họ hoạt động hiệu quả hơn. 
Hành lang pháp lý nghèo nàn, nhất là thủ tục đăng ký phá sản không hiệu quả, không khuyến khích dòng vốn đầu tư mới đổ vào các ngân hàng hay các tài sản phát mãi. Quá trình tịch biên tài sản (để xiết nợ) ở Italy có thể diễn ra trong thời gian hơn bốn năm, so với 18 tháng ở Mỹ hay Vương quốc Anh. 
Tại nhiều thị trường mới nổi, tình hình còn phức tạp hơn. Các cơ quan, tổ chức chính trị đi vay có thể buộc các ngân hàng phải gia hạn nợ dài kỳ hay thậm chí là vĩnh viên thay vì được coi là mất vốn. 
Bên cạnh đó, những diễn biến chính trị bất ngờ càng làm tình hình nghiêm trọng hơn. Giá năng lượng chịu tác động của tình hình địa chính trị cũng nhiều như diễn biến thị trường. Cuộc trưng cầu dân ý về việc nước Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU), còn gọi là Brexit, đã khiến hệ thống ngân hàng lao đao khi làm giảm mạnh giá đồng bảng và làm thay đổi hoàn toàn tương lai của các tổ chức tài chính ở Vương quốc Anh. 
Tại Italy, nhân tố chính trị đang gây trở ngại cho việc tái cấp vốn của các ngân hàng. Trong khi các quy định ngân hàng của Liên minh châu Âu (EU) cũng như mức trần nợ và ngân sách khiến Chính phủ Italy khó có thể can thiệp để ứng phó với tình hình nan giải này.
Liệu một cuộc khủng hoảng ngân hàng mới có thể bắt đầu nổ ra từ đây? Trong bối cảnh hiện nay, các cơ quan quản lý ngân hàng trên khắp thế giới sẽ cần phải tìm được lời giải cho một số câu hỏi “khó nhằn” như việc cung cấp vốn của các nền kinh tế phát triển đã đi quá xa mức cần thiết? 

Vai trò các ngân hàng có cần phải được điều chỉnh để đảm bảo các cuộc khủng hoảng như vậy sẽ ít thường xuyên xảy ra hơn? Và điều không mấy vui vẻ là đáp án cho tất cả những câu hỏi như vậy ngày càng hướng về khả năng là "có".


Sản xuất phân bón suy giảm theo El Nino

Sản xuất phân bón không những đang chịu áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn chịu sự đe dọa từ hàng ngoại, hàng giả… Bên cạnh đó, tình hình hạn hán và xâm nhập mặn trong những tháng đầu năm 2016 càng khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh trở nên khó khăn.
Lợi nhuận đi xuống

Theo báo cáo tài chính quý II-2016 của Công ty CP Phân bón dầu khí Cà Mau (DCM), lợi nhuận trước thuế quý II-2016 của công ty là 222 tỷ đồng, giảm 13% so với quý II-2015. Theo Phó tổng giám đốc Nguyễn Đức Hạnh, lợi nhuận giảm chủ yếu do biến động của doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh ure. Theo đó, mặc dù sản lượng tiêu thụ ure không chênh lệch đáng kể so với quý II-2015 nhưng do, cung – cầu ure trong nước biến động dẫn đến giá bán và doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ure của DCM trong quý II-2016 giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, doanh thu thuần trong kỳ chỉ đạt 1.377 tỷ đồng, giảm 21% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2016, DCM thu về 2.307 tỷ đồng doanh thu và 345,8 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, giảm lần lượt 18% và 23% so với cùng kỳ năm trước.

Tương tự, theo Công ty CP Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao (LAS), thị trường phân bón trong nước đang trong giai đoạn bão hòa khiến cho việc tiêu thụ sản phẩm của công ty gặp nhiều khó khăn. Doanh thu bán hàng trong quý II-2016 đã giảm 288,4 tỷ đồng, bằng 79,6% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù giá bán sản phẩm supe lân đã giảm 11%, NPK giảm 4% nhưng sức tiêu thụ vẫn có xu hướng giảm, cụ thể sản lượng tiêu thụ giảm 16%, trong đó supe lân giảm 3%, NPK giảm 22%.

Do tiêu thụ sản phẩm khó khăn nên công ty đã phải tăng các khoản chi phí bán hàng như: Chi phí hội nghị hướng dẫn sử dụng phân bón tại các xã, huyện, chi phí quảng cáo tiếp thị… Theo đó, chi phí bán hàng tăng lên 38,5 tỷ đồng, bằng 148% so với quý II-2015. Cũng do khó khăn trong tiêu thụ, Công ty đã cho giãn nợ, lùi thời gian thanh toán tiền mua hàng làm cho chi phí tài chính trong kỳ tăng thêm 4,6 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ tăng 63% so với quý II-2015. Các yếu tố trên đã tác động khiến lợi nhuận sau thuế của LAS giảm 31%, chỉ đạt 30 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm, LAS lãi ròng 61 tỷ đồng, giảm mạnh so với mức lãi 173 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm 2015.

Trong quý II-2016 doanh thu thuần của Tổng công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (DPM) cũng giảm 13% so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt gần 2.432 tỷ đồng. Nhưng do giá các nguyên liệu đầu vào giảm giúp giá vốn giảm mạnh tới 20%, nhờ đó lợi nhuận gộp trong kỳ tăng gần 10%, đạt 739 tỷ đồng. Ngoài ra, trong kỳ Công ty còn ghi nhận 4 tỷ đồng lợi nhuận khác, tăng mạnh so với 1 tỷ đồng trong quý II-2015. Nhờ đó, lợi nhuận trước thuế của DPM thu về 484 tỷ đồng, tăng 30% so với quý II-2015. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2016, DPM lãi trước thuế 976 tỷ đồng, tăng nhẹ 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Tại Công ty CP Phân bón Bình Điền, mặc dù doanh thu quý II-2016 ở mức tương đương quý II-2015, nhưng do giá đầu vào giảm đã giúp lợi nhuận gộp tăng 21%, đạt 296 tỷ đồng.

Khó khăn bủa vây

Từ đầu năm đến nay, giá các loại phân bón trong nước ở mức khá thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do giá phân bón thế giới tiếp tục giảm và nguồn cung trong nước hiện khá dồi dào. Trong khi đó, các DN sản xuất phân bón lại phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều phía. Ước tính, thị trường phân bón Việt Nam đang tồn tại khoảng 7.000 chủng loại phân bón. Điều này khiến cho công tác quản lý của cơ quan Nhà nước gặp không ít khó khăn, từ đó dẫn đến tình trạng phân bón giả tràn lan trên thị trường.

Tại một hội thảo do Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia tổ chức mới đây, lãnh đạo Cục Quản lý thị trường cho hay, mỗi năm các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện khoảng 3.000 vụ vi phạm về phân bón giả, kém chất lượng với khối lượng trên dưới 10.000 tấn. Tuy nhiên, con số thống kê này mới chỉ là bề nổi bởi còn rất nhiều vụ vi phạm khác không được phát hiện. Thêm vào đó, các DN phân bón còn phải chịu sức ép từ các đối thủ nước ngoài. Hiện Việt Nam đang nhập khẩu phân bón từ 18 quốc gia trên thế giới, trong đó chủ yếu từ Trung Quốc, chiếm gần 50% tổng lượng phân bón nhập khẩu.

Tình hình khô hạn và xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên ở mức độ cao hơn các năm đã tác động đến nhu cầu về phân bón hóa học. Điểm tích cực là giá khí giảm đã giúp các DN sản xuất phân bón giảm bớt gánh nặng chi phí đầu vào. Theo báo cáo của Công ty chứng khoán Ngân hàng BIDV (BSC), trung bình 6 tháng đầu năm 2016, giá khí đầu vào cho các đơn vị sản xuất phân ure thấp hơn 35% so với cùng kỳ năm 2015. Tương tự, giá lưu huỳnh thấp hơn 41% so với cùng kỳ. Kéo theo đó, giá phân bón cũng theo chiều hướng đi xuống. So với cùng kỳ 2015, giá phân bón trung bình trong 5 tháng đầu năm 2016 giảm khoảng 13% đối với ure, 20% đối với DAP và 3% đối với Kali. Hơn nữa, thời điểm cuối quý II là thời điểm bắt đầu của vụ hè thu- vụ mùa lớn nhất trong năm nhưng giá phân bón chưa có dấu hiệu hồi phục.

Trong khi đó, tình hình xuất khẩu phân bón trong 6 tháng đầu năm 2016 cũng sụt giảm cả về lượng và giá trị. Thống kê trong nửa đầu năm 2016, Việt Nam xuất khẩu 332,9 tấn phân bón các loại, với trị giá 95,6 triệu USD, giảm 26% về lượng và giảm 40% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Hiện phân bón của Việt Nam đã có mặt tại 8 quốc gia trên thế giới. Trong nửa đầu năm nay, xuất khẩu phân bón sang các thị trường đều suy giảm, trong đó thị trường Hàn Quốc giảm mạnh nhất với mức giảm 50% về lượng và giảm 59% về trị giá, tương ứng với 34.400 tấn, trị giá 8,6 triệu USD. Thị trường nhập khẩu phân bón lớn nhất của Việt Nam là Campuchia cũng sụt giảm 29% về lượng và giảm gần 40% về trị giá so với cùng kỳ…

Các chuyên gia của BSC cho rằng mặt bằng giá phân bón sẽ giữ ổn định và khó có thể tăng lên trong 6 tháng cuối năm 2016 do áp lực cạnh tranh với nguồn phân bón giá rẻ từ Belarus và Indonesia trong khi giá nguyên liệu được dự báo sẽ tăng lên. Tuy nhiên, La Nina nhiều khả năng diễn ra sẽ giúp các doanh nghiệp phân bón hồi phục. Theo đó, tình trạng mưa nhiều khiến phân bón dễ bị rửa trôi sẽ làm gia tăng nhu cầu tiêu thụ phân bón.

Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong nửa đầu năm 2016 Việt Nam đã nhập khẩu 1,9 triệu tấn phân bón với tổng giá trị 539 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2015, phân bón nhập khẩu đã giảm 7,7% về lượng và 19% về giá trị.(HQ)


Thúc đẩy phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực Hà Nội

TP. Hà Nội sẽ tiếp tục tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt là các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm, đẩy mạnh việc tìm kiếm khai thác các thị trường mới nổi, các thị trường mà Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương.

Với mục tiêu đến năm 2020 trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao của cả nước, Hà Nội đang tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực (SPCNCL) nhằm đưa thủ đô trở thành thành phố có nền công nghiệp hiện đại, đầu tàu kinh tế của khu vực phía Bắc.

Cơ hội mới cho SPCNCL

Các SPCNCL của Hà Nội đã chứng tỏ vị thế của mình khi tạo ra hiệu quả kinh tế, thu nhập cho người lao động, mức nộp ngân sách…, cao hơn mặt bằng chung của ngành công nghiệp thành phố. Đặc biệt là đã góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, đổi mới công nghệ, thay thế phụ tùng, linh kiện nhập khẩu, tạo ra sức cạnh tranh cho các sản phẩm công nghiệp cả nước.

Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với việc ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương, đặc biệt là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trở thành thị trường đầu tư hấp dẫn với sự góp mặt nhiều tập đoàn và công ty đa quốc gia lớn trên thế giới, đã mang lại cơ hội mới cho SPCNCL Hà Nội phát triển. Dù khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm còn hạn chế nhưng nhìn chung, hầu hết SPCNCL đã có thị trường tiêu thụ khá. Thị trường nội địa ngày càng mở rộng. Nhiều SPCNCL đã có được thị trường xuất khẩu với kim ngạch tăng dần qua từng năm.

Tuy nhiên, quá trình hội nhập đã làm bộc lộ thêm những bất cập mới. Nhiều SPCNCL vẫn ở dạng gia công đơn giản, phụ thuộc nhiều đầu vào nhập khẩu. Năng suất lao động thấp, kỹ năng của nguồn nhân lực cũng như trình độ quản lý của doanh nghiệp còn yếu đã làm giảm năng lực cạnh tranh. Thực hiện các cam kết trong tiến trình hội nhập đã gây nhiều khó khăn và áp lực cho các doanh nghiệp. Hơn nữa, việc SPCNCL Hà Nội phụ thuộc nhiều vào xuất - nhập khẩu cũng đem lại nhiều rủi ro do thị trường biến động khó lường. Bên cạnh đó, mặc dù đã đạt được kết quả nhất định nhưng SPCNCL Hà Nội vẫn chưa tận dụng tốt cơ hội trong hội nhập nhằm thu hút chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao; chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp FDI đầu tư vào sản phẩm công nghiệp hỗ trợ chuyên sâu do dung lượng thị trường nhỏ.

Mặc khác, theo ý kiến của một số chuyên gia, SPCNCL Hà Nội đã và đang phát triển nhưng các doanh nghiệp có SPCNCL chưa tìm được giải pháp phối hợp, liên kết với nhau trong sản xuất để đạt hiệu quả cao.

Hỗ trợ thiết thực

Để tạo điều kiện cho SPCNCL phát triển, trong những năm qua, UBND TP. Hà Nội đã có nhiều cơ chế hỗ trợ, ưu đãi về tài chính, khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại đối với các doanh nghiệp có các sản phẩm được công nhận là SPCNCL của thành phố. Cụ thể, Hà Nội đã có cơ chế hỗ trợ lãi suất vay sau đầu tư doanh nghiệp trên 3,5 tỷ đồng, hỗ trợ quỹ từ nguồn khoa học công nghệ hơn 10 tỷ đồng. Hà Nội cũng đã dành trên 3 tỷ đồng cho chương trình xúc tiến thương mại, đưa các doanh nghiệp có các sản phẩm được công nhận là SPCNCL của thành phố tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước để mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.

Bên cạnh đó, UBND TP. Hà Nội, trực tiếp là Sở Công Thương, đã thường xuyên tổ chức khảo sát thực tế, đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp có SPCNCL để kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Bước sang giai đoạn 2016 - 2020, với mục tiêu đến năm 2020 trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao của cả nước, Hà Nội đang tập trung phát triển các SPCNCL. Thành phố chủ trương phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ cao, phấn đấu đến năm 2020, tăng số lượng sản phẩm được công nhận là SPCNCL lên 150 sản phẩm, đưa Hà Nội trở thành thành phố có nền công nghiệp hiện đại, đầu tàu của khu vực phía Bắc.

Theo ông Đàm Tiến Thắng - Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội, ngoài các giải pháp chung nhằm cải cách, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, để thúc đẩy Chương trình phát triển SPCNCL, Hà Nội sẽ quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Theo đó, Hà Nội sẽ tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các ngành (đặc biệt lĩnh vực thuế, hải quan) theo hướng: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục hành chính, giảm thời gian, đơn giản hóa thành phần hồ sơ, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức để các thủ tục hành chính ngày càng minh bạch, thuận tiện, công bằng cho doanh nghiệp.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, Chương trình phát triển SPCNCL thành phố Hà Nội sẽ chú trọng đến sản phẩm công nghiệp công nghệ cao thuộc các nhóm ngành của các doanh nghiệp tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc, bởi đây là công nghệ nguồn, có thể hỗ trợ cho sự phát triển của công nghiệp Hà Nội và cả nước. Những sản phẩm sản xuất từ khu công nghiệp công nghệ cao Hòa Lạc có khả năng cạnh tranh tốt với các sản phẩm quốc tế. Cùng với đó là các sản phẩm công nghiệp tại Khu công nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội (Hanssip). Với quy mô khoảng 600ha, Hanssip là khu công nghiệp chuyên sâu về công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao, hàm lượng chất xám cao, hiện đại…

TP. Hà Nội sẽ tiếp tục tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt là các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm, đẩy mạnh việc tìm kiếm khai thác các thị trường mới nổi, các thị trường mà Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương. Chú trọng khai thác các khu vực cung cấp nguyên phụ liệu, linh kiện phụ tùng, máy móc thiết bị để tận dụng lợi thế khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực.

Một vấn đề quan trọng nữa là Hà Nội sẽ đẩy mạnh triển khai thực hiện các chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật lành nghề, phối hợp với các trường đại học, các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước mở các lớp đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, bảo đảm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng cho các doanh nghiệp sản xuất SPCNCL của thành phố.(BCT)


(

Tinkinhte

tổng hợp)
Trở về

Bài cùng chuyên mục