Mặc dù kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng dược phẩm từ hai thị trường Canada và Singapore chỉ đạt 7,3 và 3,1 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ tốc độ tăng mạnh gấp 2 lần mỗi thị trường so với cùng kỳ.
Xuất khẩu cà phê sang các thị trường năm 2018
- Cập nhật : 21/02/2019
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 12/2018 cả nước xuất khẩu 153.906 tấn cà phê, đạt 275,77 triệu USD, tăng 11,4% về lượng và tăng 7,1% về kim ngạch so với tháng 11/2018, nhưng giảm 2,8% về lượng và giảm 13,4% về kim ngạch so với tháng 12/2017; nâng tổng lượng cà phê xuất khẩu cả năm 2018 lên 1,88 triệu tấn, thu về gần 3,54 tỷ USD, tăng 30,3% về lượng và tăng 9% về kim ngạch so với năm 2017.
Giá cà phê xuất khẩu trung bình trong năm 2018 giảm 16,3% so với năm 2017, đạt 1.883,4 USD/tấn.
EU là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại cà phê của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và chiếm 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước; đạt 749.231 tấn, trị giá 1,34 tỷ USD, so với năm 2017 tăng 19,1% về lượng nhưng giảm 1,5% về kim ngạch. Riêng tháng 12/2018 lượng xuất khẩu sang thị trường này giảm nhẹ 0,8% so với tháng 11/2018, đạt 66.134 tấn và kim ngạch giảm 5,6%, đạt 111,17 triệu USD.
Đông Nam Á là thị trường tiêu thụ lớn thứ 2 các loại cà phê của Việt Nam, chiếm 13% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước; đạt 243.270 tấn, trị giá 467,38 triệu USD, tăng mạnh 102,5% về lượng và tăng 71,3% về giá trị so với năm 2017.
Trong khối EU, xuất khẩu sang Đức nhiều nhất chiếm trên 34%, đạt 260.475 tấn, tương đương 459,03 triệu USD; xuất sang Italia chiếm 18%, đạt 136.157 tấn, tương đương 245,25 triệu USD; xuất sang Tây Ban Nha chiếm 16%, đạt 122.063 tấn, tương đương 219,22 triệu USD.
Nhìn chung, cà phê xuất khẩu trong năm 2018 sang đa số các thị trường tăng kim ngạch so với năm 2017; trong đó, xuất khẩu tăng mạnh ở các thị trường sau: Indonesia tăng 343,6% về lượng và tăng 273,3% về kim ngạch, đạt 62.320 tấn, tương đương 123,55 triệu USD; Nam Phi tăng 145% về lượng và tăng 109% về kim ngạch, đạt 10.073 tấn, tương đương 17,3 triệu USD; Hy Lạp tăng 139,5% về lượng và tăng 96,4% về kim ngạch, đạt 13.646 tấn, tương đương 23,82 triệu USD; NewZealand tăng 124% về lượng và tăng 78% về kim ngạch, đạt 2.253 tấn, tương đương 4,2 triệu USD.
Ngược lại, xuất khẩu cà phê sụt giảm mạnh ở các thị trường như: Thụy Sỹ giảm 47,5% về lượng và giảm 51% về kim ngạch, đạt 244 tấn, tương đương 0,49 triệu USD; xuất sang Singapore cũng giảm 40% về lượng và giảm 50,7% về kim ngạch, đạt 1.263 tấn, tương đương 3,55 triệu USD; Mexico giảm 7% về lượng và giảm 24% về kim ngạch, đạt 33.406 tấn, tương đương 55,9 triệu USD.
Dự báo, trong 6 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ tiếp tục gặp khó khăn do giá cà phê toàn cầu ở mức thấp; lượng cà phê xuất khẩu có khả năng thấp hơn cùng kỳ năm 2018 do sản lượng giảm. Bên cạnh đó, 6 tháng đầu năm 2019 thị trường cà phê toàn cầu vẫn chịu áp lực dư cung, kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro cũng sẽ có tác động nhất định đến nhu cầu tiêu thụ cà phê.
Thị trường cà phê toàn cầu cũng đã xuất hiện tín hiệu khả quan khi sản lượng cà phê Việt Nam dự báo giảm mạnh. Theo Hiệp hội Cà phê - Ca Cao Việt Nam, sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2018/19 giảm khoảng 20% so với dự kiến trước đó do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu năm 2018 và diện tích trồng cà phê giảm khoảng 6% trong năm 2017 và năm 2018 do chuyển đổi cây trồng. Trong khi, các tác động của El Nino đã diễn ra ở một số khu vực của Australia, Brazil và Ấn Độ nhiều khả năng sẽ ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng mùa vụ các mặt hàng nông nghiệp. Mới đây, Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) cho rằng dư thừa cà phê chỉ là ngắn hạn, trong khi nhu cầu tiêu thụ hàng năm vẫn tăng trưởng ổn định. Do đó, nhiều khả năng nửa cuối năm 2019, giá cà phê sẽ phục hồi trở lại sau khi lượng cà phê dư thừa được tiêu thụ hết, nhưng mức tăng sẽ không quá cao.
Xuất khẩu cà phê năm 2018
Thị trường | Năm 2018 | +/- so với năm 2017 (%)* | ||
Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng kim ngạch | 1.878.278 | 3.537.535.962 | 30,25 | 9,04 |
Đức | 260.475 | 459.031.259 | 16,98 | -3,67 |
Mỹ | 182.576 | 340.221.901 | -0,07 | -16,31 |
Italía | 136.157 | 245.253.945 | 8,55 | -9,66 |
Tây Ban Nha | 122.063 | 219.217.377 | 19,88 | -0,77 |
Nhật Bản | 105.119 | 206.000.470 | 17,16 | -1,8 |
Nga | 90.418 | 185.765.363 | 97,35 | 59,14 |
Philippines | 82.656 | 158.670.722 | 58,08 | 42,64 |
Algeria | 74.120 | 132.478.045 | 38,75 | 15,21 |
Bỉ | 75.129 | 130.825.543 | 16,06 | -4,59 |
Indonesia | 62.320 | 123.553.997 | 343,59 | 273,31 |
Thái Lan | 59.800 | 109.972.102 | 94,37 | 51,23 |
Trung Quốc | 44.282 | 109.540.270 | 58 | 29,12 |
Ấn Độ | 58.019 | 95.691.744 | 35,67 | 12,05 |
Anh | 53.794 | 95.650.636 | 52,4 | 20,6 |
Hàn Quốc | 32.379 | 70.151.724 | -7,77 | -14,67 |
Malaysia | 36.809 | 69.098.812 | 80,14 | 48,91 |
Pháp | 39.194 | 67.735.998 | 18,02 | -1,68 |
Mexico | 33.406 | 55.897.095 | -6,98 | -23,95 |
Australia | 20.435 | 39.469.787 | 72,84 | 38,34 |
Ba Lan | 14.284 | 33.815.898 | 20,09 | 4,84 |
Bồ Đào Nha | 17.051 | 30.444.293 | 37,99 | 14,19 |
Hy Lạp | 13.646 | 23.822.679 | 139,53 | 96,42 |
Israel | 8.969 | 22.820.544 | 38,54 | 6,6 |
Hà Lan | 10.620 | 21.874.974 | 0,48 | -14,09 |
Ai Cập | 12.649 | 21.845.475 | 49,2 | 26,95 |
Nam Phi | 10.073 | 17.300.971 | 144,97 | 109,02 |
Romania | 4.427 | 12.559.760 | 8,13 | 4,37 |
Canada | 5.458 | 10.610.283 | -3 | -19,38 |
Đan Mạch | 2.391 | 4.328.230 | 100,25 | 64,87 |
New Zealand | 2.253 | 4.197.013 | 123,96 | 78,08 |
Singapore | 1.263 | 3.552.121 | -40 | -50,67 |
Campuchia | 422 | 2.533.949 | -17,42 | 19,04 |
Thụy Sỹ | 244 | 489.853 | -47,53 | -51,08 |
(*Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn