Tổng cục Hải quan ghi nhận trong tháng 6 năm 2018, số lượng ô tô nguyên chiếc các loại đăng ký tờ khai hải quan nhập khẩu đạt 3.356 chiếc với trị giá hơn 82 triệu USD, tăng mạnh 45,6% về lượng và tăng 21,4% về trị giá so với tháng 5.

Mặc dù chưa lọt vào TOP những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu tỷ đô trong 5 tháng đầu năm 2018, nhưng kim loại thường và sản phẩm là một trong những nhóm hàng đạt kim ngạch cao 949,1 triệu USD, tăng 36,3% so với cùng kỳ.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, xuất khẩu kim loại thường và sản phẩm của Việt Nam trong tháng 5/2018 đã lấy lại đà tăng trưởng, tăng 14% so với tháng liền trước đó đạt 222,2 triệu USD, nâng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tính từ đầu năm đến hết tháng 5/2018 lên 949,1 triệu USD, tăng 36,3% so với cùng kỳ năm 2017.
Ấn Độ, Mỹ và Đông Nam Á là những thị trường chủ lực nhập khẩu nhóm hàng kim loại thường và sản phẩm từ Việt Nam, chiếm 55,5% tỷ trọng, trong đó Ấn Độ đạt kim ngạch cao nhất 257,3 triệu USD (chiếm 27,1%) tăng 39,33%. Tính riêng tháng 5/2018 đạt 59,2 triệu USD, tăng 13,56% so với tháng 4/2018 và tăng 63,04% so với tháng 5/2017.
Đứng thứ hai là thị trường Mỹ đạt 36,7 triệu USD trong tháng 5/2018, tăng 34,52% so với tháng trước đó và tăng 35,1% so với tháng 5/2017, nâng kim ngạch 5 tháng đầu năm 2018 sang thị trường Mỹ đạt 146,3 triệu USD, tăng 49,38% so với cùng kỳ.
Nhìn chung, 5 tháng đầu năm nay xuất khẩu nhóm hàng này sang các thị trường đều có kim ngạch tăng trưởng, số thị trường tăng chiếm 72,7% và ngược lại suy giảm chỉ chiếm 27,2%.
Đáng chú ý, 5 tháng đầu năm 2018 Đài Loan tăng mạnh mua kim loại thường và sản phẩm từ thị trường Việt Nam, gấp 2,1 lần (tức tăng 207,08%) tuy kim ngạch chỉ đạt 41,9 triệu USD. Tính riêng tháng 5 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sang Đài Loan đạt 11,3 triệu USD, tăng 18,17% so với tháng trước đó và tăng gấp 2 lần (201,54%) so với tháng 5/2017.
Ngoài ra, xuất sang Hà Lan và Philippines cũng tăng khá, tăng lần lượt 148,59% và 109,87% đạt tương ứng 2,5 triệu USD; 18,9 triệu USD.
Ở chiều ngược lại xuất sang Thụy Điển và Hongkong (Trung Quốc) giảm mạnh, 95,91% và 60,27% chỉ với 22,2 nghìn USD và 5,5 triệu USD.
Đặc biệt, cơ cấu thị trường xuất khẩu kim loại thường khác và sản phẩm 5 tháng đầu năm nay có thêm thị trường Angola, tuy nhiên kim ngạch chỉ đạt ở mức thấp 36,3 nghìn USD.
Thị trường xuất khẩu kim loại thường khác và sản phẩm 5T/2018
Thị trường | T5/2018 (USD) | +/- so với tháng 4/2018 (%) | 5T/2018 (USD) | +/- so với cùng kỳ năm trước (%) |
Ấn Độ | 59.270.945 | 13,56 | 257.329.731 | 39,33 |
Hoa Kỳ | 36.786.419 | 34,52 | 146.388.614 | 49,38 |
Nhật Bản | 19.001.626 | -2,54 | 94.152.922 | 18,85 |
Hàn Quốc | 16.553.535 | 26,12 | 68.754.056 | 5,23 |
Trung Quốc | 12.034.918 | 16,7 | 54.461.084 | 38,43 |
Đài Loan | 11.372.329 | 18,17 | 41.934.881 | 207,08 |
Campuchia | 6.848.367 | 24,28 | 29.776.132 | 31,44 |
Thái Lan | 3.067.552 | -31,27 | 22.965.178 | -17,66 |
Indonesia | 4.184.841 | -43,7 | 20.406.995 | 0,46 |
Philippines | 6.269.512 | 0,87 | 18.968.982 | 109,87 |
Canada | 3.524.091 | -22,7 | 18.909.881 | 25,63 |
Australia | 2.896.861 | 48,69 | 14.860.929 | -18,5 |
Myanmar | 2.027.591 | -12,32 | 14.377.351 | 6,99 |
Malaysia | 4.234.286 | 59,68 | 14.272.210 | 11,75 |
Anh | 2.707.992 | -12,81 | 14.196.631 | 26,57 |
Brazil | 2.962.401 | 109,55 | 8.045.015 | 73,37 |
Đức | 1.493.939 | 11,94 | 6.241.449 | 42 |
Hồng Kông (Trung Quốc) | 603.897 | -5,33 | 5.572.589 | -60,27 |
Hà Lan | 1.267.663 | 269,07 | 2.575.045 | 148,59 |
Singapore | 313.017 | -17,61 | 1.875.103 | -22,53 |
Lào | 88.315 | -80,38 | 1.097.058 | -35,93 |
Thụy Điển |
|
| 22.202 | -95,91 |
(Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Tổng cục Hải quan ghi nhận trong tháng 6 năm 2018, số lượng ô tô nguyên chiếc các loại đăng ký tờ khai hải quan nhập khẩu đạt 3.356 chiếc với trị giá hơn 82 triệu USD, tăng mạnh 45,6% về lượng và tăng 21,4% về trị giá so với tháng 5.
Sau khi tăng trưởng 20,2% trong quý I, xuất khẩu tôm trong quý II có chiều hướng giảm nhẹ.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm cả nước xuất khẩu 3,48 triệu tấn gạo, thu về gần 1,77 tỷ USD, tăng 21,6% về lượng và tăng 38,9% về kim ngạch so với 6 tháng đầu năm ngoái. Trong đó, riêng tháng 6/2018 đạt 537.948 tấn, trị giá 281,03 triệu USD, giảm 29,6% về lượng và giảm 28,2% về kim ngạch so với tháng 5/2018. Giá gạo xuất khẩu trung bình trong tháng 6/2018 đạt 522,4 USD/tấn, giá trung bình cả 6 tháng đạt 507,7 USD/tấn.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 6/2018 đạt 372 triệu USD, tăng 8,91% so với tháng trước đó và tăng 12,96% so với cùng tháng năm ngoái.
Xăng dầu luôn đứng đầu về kim ngạch, chiếm 32,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa các loại từ thị trường Malaysia, đạt trên 1,05 tỷ USD.
Số liệu từ Bộ NN&PTNT cho biết, trong nửa đầu năm 2018, nhập khẩu phân bón các loại đạt 2,43 triệu tấn, 790 triệu USD, tăng 1,2% về lượng và 21,8% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu hầu hết các loại hàng hóa từ Nhật Bản đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, nhóm hàng than đá tăng đột biến gấp 134 lần.
5 tháng đầu năm 2018 Việt Nam đã nhập siêu từ Đài Loan 4,09 tỷ USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Những mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu tiếp tục là điện thoại các loại và linh kiện (22,5 tỷ USD), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (13,45 tỷ USD), hàng dệt, may (13,42 tỷ USD), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (7,8 tỷ USD), giày dép các loại (7,79 tỷ USD).
Tuy chỉ đứng thứ hai về kim ngạch nhưng xuất khẩu mặt hàng hóa chất sang thị trường Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm nay tăng vượt trội.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự