Ông Phạm Văn Công, Chủ tịch Vinacas, dự báo năm 2019 có thể tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với ngành điều nên các nhà sản xuất, chế biến cần thận trọng. Ông Công khuyến cáo các doanh nghiệp không vội kí hợp đồng khi vụ mùa chưa bắt đầu đầu.

Xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh kiện đã lấy lại đà tăng trưởng. Trung Quốc là thị trường lớn nhất của sản phẩm này.
Thời gian gần đây, điện thoại và linh kiện luôn giữ vị trí là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tính từ đầu năm đến tháng 11/2018, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này vươn lên dẫn đầu và chiếm 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 46,2 tỷ USD, tăng 11,7% so với cùng kỳ. Riêng tháng 11/2018, trị giá xuất khẩu nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 4,7 tỷ USD, tăng 0,6% so với tháng trước.
Với vị trí địa lý và khoảng cách không xa với Việt Nam, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chủ lực, chiếm 18,18% tỷ trọng đạt 8,4 tỷ USD, tăng 53,5% so với cùng kỳ, riêng tháng 11/2018 xuất khẩu sang thị trường này giảm 17,61% so với tháng 10/2018 và giảm 22,66% so với tháng 11/2017 chỉ có 1,18 tỷ USD.
Đứng thứ là thị trường Mỹ với kim ngạch 5,19 tỷ USD, tăng 47,13% so với cùng kỳ, riêng tháng 11/2018 giảm 17,51% so với tháng 10/2018 nhưng tăng 50,29% so với tháng 11/2017, đạt 471,47 triệu USD.
Kế đến là các thị trường Hàn Quốc, UAE, Áo, Anh, Đức…. Nhìn chung, 11 tháng đầu năm nay kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường đều tăng trưởng, số thị trường này chiếm 58,33%, trong đó xuất sang thị trường Ấn Độ tăng nhiều nhất 54,43%, tuy chỉ đạt 785,7 triệu USD, riêng tháng 11/2018 xuất sang Ấn Độ giảm nhẹ 0,85% tương ứng với 62,39 triệu USD. Ở chiều ngược lại, xuất sang thị trường Mexico giảm mạnh 83,41% chỉ với 85,85 triệu USD, mặc dù tháng 11/2018 xuất sang thị trường này lại tăng mạnh gấp 2,6 lần (tức tăng 164,83%) so với tháng 10/2018 đạt 10,36 triệu USD, nếu so với tháng 11/2017 tăng gấp 10 lần (tức tăng 905,02%).
Dự kiến kim ngạch xuất khẩu điện thoại các loại năm 2018 đạt 48,5 tỷ USD, tăng khoảng 7,13% so với năm 2017. Trung Quốc vẫn sẽ trở thành một trong những thị trường chủ lực của mặt hàng này.
Được biết, trong những năm gần đây, Samsung đầu ra rất mạnh sản xuất điện thoại tại Việt Nam và Ấn Độ.
Theo Hong Kong News, kết thúc năm 2018, Samsung Electronics sẽ đóng cửa nhà máy sản xuất điện thoại tại TP Thiên Tân, Đông Bắc Trung Quốc (TQ). Nhà máy này hiện có 2.800 nhân viên, sản xuất ra hơn 36 triệu điện thoại di động/năm. Nguyên nhân của việc đóng cửa nhà máy Thiên Tân là thị phần điện thoại của Samsung bị giảm sút tại thị trường TQ do bị cạnh tranh mạnh bởi đối thủ Huawei, cũng như chi phí nhân công TQ gia tăng.
Tại TQ, Samsung Electronics có hai nhà máy sản xuất điện thoại di động. Họ vẫn còn giữ lại nhà máy tại Huệ Châu (phía Nam Quảng Đông). Nhà máy này có công suất gấp đôi Thiên Tân, với 72 triệu điện thoại di động sản xuất mỗi năm.
Samsung vẫn chưa cho biết liệu nhà máy Thiên Tân tại TQ sau khi đóng cửa sẽ được chuyển về đâu. Trong khi đó, trong những năm gần đây Samsung đầu tư rất mạnh sản xuất điện thoại tại Việt Nam và Ấn Độ.
Vào tháng 10 vừa qua, ông Lee Jae-yong, được mệnh danh là thái tử Samsung, Phó Chủ tịch Samsung Electronics, đã có chuyến thăm Việt Nam. Tại đây, ông có cuộc gặp gỡ và nói chuyện với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và cam kết rằng sẽ tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam.
Samsung Electronics vận hành dây chuyền sản xuất điện thoại thông minh tại Bắc Ninh và Thái Nguyên (Việt Nam). Các nhà máy này sản xuất 150 triệu điện thoại di động, chiếm một nửa tổng lượng sản xuất của Samsung. Điều này có nghĩa rằng Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Samsung.
Thị trường xuất khẩu điện thoại và linh kiện 11 tháng 2018
Thị trường
| T11/2018 (USD) | +/- so với T10/2018 (%)* | 11T/2018 (USD) | +/- so với cùng kỳ 2017 (%)* |
Trung Quốc | 1.186.422.187 | -17,61 | 8.402.606.727 | 53,5 |
Mỹ | 471.376.351 | -17,51 | 5.197.841.288 | 47,13 |
Hàn Quốc | 362.155.078 | -17,82 | 4.143.647.133 | 12,9 |
UAE | 288.334.483 | 33,13 | 3.638.573.887 | -1,47 |
Áo | 332.574.751 | 22,92 | 3.332.985.133 | 10,81 |
Anh | 295.733.670 | 77,03 | 2.113.600.399 | 12,39 |
Đức | 174.110.483 | -0,19 | 1.871.018.101 | 20,22 |
HongKong (TQ) | 102.242.274 | -20,69 | 1.713.562.912 | -16,76 |
Thái Lan | 118.944.973 | 34,66 | 1.326.393.665 | 19,33 |
Pháp | 175.622.487 | 60,37 | 1.262.777.219 | 16,18 |
Hà Lan | 114.829.462 | -0,38 | 1.171.112.148 | 5,07 |
Nga | 141.541.054 | 85,44 | 1.075.484.968 | 5,41 |
Tây Ban Nha | 59.520.602 | -4,38 | 915.529.036 | 8,57 |
Ấn Độ | 62.393.659 | -0,85 | 785.751.511 | 54,43 |
Italy | 125.578.518 | -6,35 | 779.183.451 | 6,2 |
Nhật Bản | 89.655.250 | -25,59 | 762.853.329 | 1,96 |
Brazil | 74.185.464 | -1,54 | 741.074.146 | -3,12 |
Australia | 62.202.140 | 52,7 | 715.134.012 | 22,77 |
Thụy Điển | 74.712.385 | 45,3 | 618.324.256 | 20,66 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 37.260.484 | 75,15 | 616.540.570 | -16,14 |
Malaysia | 37.763.521 | -16,23 | 529.383.292 | -5,25 |
Israel | 25.574.728 | 8,74 | 394.263.440 | 7,3 |
Philippines | 48.430.599 | 59,19 | 367.501.878 | -10,06 |
Đài Loan | 23.694.293 | 55,44 | 343.955.915 | -10,03 |
Singapore | 23.061.993 | 9,64 | 279.580.681 | -8,25 |
Nam Phi | 12.995.100 | 6,57 | 269.013.215 | -22,56 |
Indonesia | 19.363.900 | -1,26 | 245.882.224 | -50,73 |
Slovakia | 29.531.420 | -0,37 | 214.368.268 | 18,56 |
Bồ Đào Nha | 20.061.854 | -1,28 | 180.707.488 | 19,73 |
New Zealand | 22.062.145 | 32,83 | 173.774.962 | 7,59 |
Ukraina | 16.242.968 | 72,73 | 135.825.538 | -0,71 |
Colombia | 9.767.570 | -7,41 | 132.551.821 | -51,59 |
Hy Lạp | 7.694.628 | -39,11 | 99.566.016 | 29,82 |
Mexico | 10.363.448 | 164,83 | 85.851.956 | -83,41 |
Saudi Arabia | 2.950.203 | 85,64 | 60.976.937 | -42,74 |
Campuchia |
| -100 | 18.661.823 | -37,03 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Ông Phạm Văn Công, Chủ tịch Vinacas, dự báo năm 2019 có thể tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với ngành điều nên các nhà sản xuất, chế biến cần thận trọng. Ông Công khuyến cáo các doanh nghiệp không vội kí hợp đồng khi vụ mùa chưa bắt đầu đầu.
11 tháng đầu năm 2018 kim ngạch nhập khẩu than tăng mạnh 66,3% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt trên 2,26 tỷ USD.
Nếu như 10 tháng đầu năm 2018 xuất khẩu thủy sản sang thị trường Pakistan tăng mạnh, thì nay đã nhường lại vị trí này cho mặt hang chè.
Trong cơ cấu xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Campuchia, mặt hàng rau quả tiếp tục giữ tốc độ tăng mạnh trong 11 tháng năm 2018.
Lọt vào TOP những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu tỷ USD trong 11 tháng đầu năm 2018. kim loại thường và sản phẩm đã đóng góp vào kim ngạch của cả nước 2,1 tỷ USD chiếm 0,94% tỷ trọng.
Tháng 11/2018, kim ngạch xuất khẩu thủy tinh và sản phẩm giữ tiếp đà tăng trưởng. Nhà máy sản xuất thủy tinh lớn nhất miền Trung đã đi vào hoạt động, dự báo thời gian tới nhóm hàng này hướng đến nhu cầu xuất khẩu trong lĩnh vực hóa mỹ phẩm và y tế.
Xuất khẩu giày dép sang Mỹ đứng đầu về kim ngạch, đạt 5,26 tỷ USD, chiếm 35,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của cả nước.
Xuất khẩu sản phẩm gốm sứ sang các thị trường 11 tháng đầu năm 2018 đều tăng trưởng, số thị trường này chiếm 62,5%.
Sau khi suy giảm trong tháng 9/2018, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng sản phẩm từ sắt thép tăng hai tháng liên tiếp, cụ thể tháng 10/2018 tăng 0,2%, tháng 11/2018 tăng 4,8% nâng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này 11 tháng 2018 lên trên 2,7 tỷ USD tăng 31,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Tháng 11/2018, xuất khẩu xơ sợi dệt của Việt Nam tăng cả lượng và trị giá so với tháng 10/2018, tăng lần lượt 2,4% và 2,8% đạt tương ứng 127,8 nghìn tấn, trị giá 344,59 triệu USD, nâng lượng xuất khẩu mặt hàng này 11 tháng 2018 lên 1,34 triệu tấn, trị giá trên 3,6 tỷ USD, tăng 9,7% về lượng và 12,6% về trị giá so với cùng kỳ 2017.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự