4 tháng đầu năm 2019, lượng xăng dầu nhập khẩu giảm 29,8% so với cùng kỳ năm 2018, đạt 3,07 triệu tấn và kim ngạch cũng giảm 33,1%, đạt 1,89 tỷ USD.

Xuất khẩu sản phẩm nhựa của Việt Nam hàng năm cũng thu về đền tiền tỷ USD, nhưng ngược lại cũng phải nhập khẩu nguyên liệu tới hàng trăm triệu USD. Cùng với quá trình hội nhập và sự bùng nổ của Cách mạng công nghiệp 4.0, sẽ tạo ra cơ hội lớn cho ngành công nghiệp nhựa Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao trong thời gian tới. Tuy nhiên, ngành này cũng đang gặp phải không ít khó khăn, đặc biệt là về nguyên liệu.
Theo Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), việc Việt Nam ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã mang đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm từ nhựa. Các đối tác đang chuyển dần đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam để tận dụng chi phí sản xuất rẻ và thuế xuất khẩu được hưởng nhiều ưu đãi. Đồng thời, nhu cầu nhập khẩu sản phẩm nhựa tại thị trường EU, Nhật Bản vẫn ở mức cao, trong khi đó, khách hàng tại các quốc gia này ngày càng ưa thích sản phẩm nhựa Việt Nam.
Mỗi năm ngành nhựa Việt Nam cần trung bình 2 - 2,5 triệu tấn nguyên vật liệu, nhưng lại đang phải nhập khẩu tới 75 - 80%. Việc phụ thuộc nguyên liệu nhựa nhập khẩu đã và đang làm tăng chi phí đầu vào theo giá nguyên liệu nhập (giá nguyên liệu chiếm từ 60% đến 70% giá thành sản xuất) và tăng rủi ro tỷ giá, giảm sự chủ động, sức cạnh tranh và khó tận dụng được ưu đãi thuế quan bởi những quy định về xuất xứ hàng hóa.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ, nhập khẩu nguyên liệu nhựa trong 3 năm gần đây liên tục tăng kể cả về số lượng và kim ngạch, năm sau luôn cao hơn năm trước.
Sang năm 2019 và kết thúc quý 1/2019, nhập khẩu nhóm hàng này đạt 1,47 triệu tấn, trị giá 2,1 tỷ USD, tăng 10,5% về lượng và tăng 1,0% trị giá so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng tháng 3/2019, Việt Nam đã nhập 540,9 nghìn tấn, trị giá 783,38 triệu USD, tăng 38,1% về lượng và 39,5% trị giá so với tháng 2/2019.
Tình hình nhập khẩu nguyên liệu nhựa kể từ năm 2016 đến hết quý 1/2019
| Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | +/- so sánh với năm trước (%) | |
Lượng | Trị giá | |||
Năm 2016 | 4.538.145 | 6.261.617.045 | 15,7 | 5,1 |
Năm 2017 | 4.906.902 | 7.315.301.890 | 8,1 | 16,8 |
Năm 2018 | 5.581.548 | 9.066.912.696 | 11,6 | 19,6 |
Quý 1/2019 | 1.474.077 | 2.147.472.260 | 10,5 | 1,0 |
Nguồn: Số liệu TCHQ
Trong quý 1/2019, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Hàn Quốc đạt 254,75 nghìn tấn, trị giá 406,89 triệu USD, tăng 12,19% về lượng và 5,46% trị giá so với cùng kỳ, riêng tháng 3/2019 cũng nhập từ thị trường này 89,1 nghìn tấn, trị giá 140,45 triệu USD, tăng 17,52% về lượng và 19,23% trị giá so với tháng 2/2019.
Đứng thứ hai là thị trường Saudi Arabia đạt 246,1 nghìn tấn, tị giá 270,72 triệu USD, tuy nhiên tốc độ nhập từ thị trường này sụt giảm 11,38% về lượng và 21,74% trị giá so với cùng kỳ.
Đặc biệt, trong quý đầu năm nay Việt Nam tăng mạnh nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu từ thị trường Mỹ, tăng gấp 4,9 lần về lượng (tương ứng 389,68%) và gấp 2,9 lần trị giá (tương ứng 194,9%), đạt lần lượt 143,16 nghìn tấn, trị giá 185,45 triệu USD. Giá nhập bình quân từ thị trường này giảm 39,78%, chỉ với 1295,45 USD/tấn.
Nhưng ngược lại, Việt Nam giảm mạnh nhập từ thị trường Nga, giảm 99,69% về lượng và 97,25% trị giá, tương ứng với 9 tấn, trị giá 97,5 nghìn USD. Giá nhập bình quân 10841,33 USD/tấn, tăng gấp 8,9 lần (tương ứng 785,67) so với cùng kỳ - đây cũng là thị trường có giá tăng mạnh nhất. Ngoài ra, cũng giảm mạnh nhập khẩu từ thị trường Nam Phi và Brazil với lượng giảm lần lượt 78,68% và 74,53%.
Vậy, để giảm nhập khẩu nguyên liệu nhựa trong thời gian tới, doanh nghiệp ngành nhựa cần chủ động tái cơ cấu đầu tư hoặc tăng cường năng lực nghiên cứu, tập trung đầu tư máy móc, theo chuẩn công nghệ mới và phát triển ngành hóa dầu trong nước… nhằm giảm bớt phụ thuộc nguyên liệu nước ngoài, đa dạng hóa mẫu mã, nâng cao khả năng cạnh tranh về chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.
Thị trường cung cấp chất dẻo nguyên liệu quý 1/2019
Thị trường | Quý 1/2019 | +/- so với quý 1/2018(%)* | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Hàn Quốc | 254.750 | 406.896.748 | 12,19 | 5,46 |
Saudi Arabia | 246.115 | 270.727.623 | -11,38 | -21,74 |
Đài Loan | 175.485 | 278.929.716 | 4,45 | 1,88 |
Thái Lan | 157.640 | 207.053.370 | 7,44 | 0,05 |
Trung Quốc | 154.522 | 274.328.789 | 31,26 | 17,87 |
Mỹ | 143.162 | 185.454.471 | 389,68 | 194,9 |
Nhật Bản | 58.403 | 122.119.969 | 17,99 | 16,96 |
Singapore | 56.860 | 78.969.295 | 3,73 | -5,53 |
Malaysia | 50.280 | 75.382.053 | 11,86 | 6,9 |
UAE | 38.676 | 45.211.699 | 47,67 | 29,05 |
Ấn Độ | 30.557 | 36.969.875 | -9,95 | -13,5 |
Indonesia | 23.213 | 29.461.033 | -6,96 | -2,66 |
Kuwait | 20.184 | 21.927.734 | -5,64 | -14,99 |
Qatar | 19.640 | 21.474.652 | -7,88 | -19,22 |
EU | 16.258 | 53.789.112 | 49,28 | 42,05 |
Đức | 5.327 | 26.465.496 | -26,36 | -40,48 |
Australia | 3.084 | 4.634.747 | -34,19 | -34,73 |
Tây Ban Nha | 2.790 | 5.406.381 | -20,56 | -9,6 |
Hà Lan | 2.215 | 4.248.865 | 29,91 | -0,22 |
Bỉ | 2.014 | 4.906.933 | -35,39 | -16,75 |
Canada | 1.858 | 2.037.925 | -2,31 | -15,46 |
Nam Phi | 1.834 | 2.270.866 | -78,68 | -78,78 |
Italy | 1.740 | 5.959.563 | 54,39 | 81,11 |
Philippines | 1.249 | 3.378.087 | -72,92 | -53,14 |
Hồng Kông (TQ) | 1.205 | 1.817.294 | -19,24 | -36,82 |
Pháp | 1.178 | 3.897.649 | 39,74 | 11,21 |
Anh | 814 | 2.230.693 | 3,17 | -22,79 |
Brazil | 363 | 931.152 | -74,53 | -57,83 |
Thụy Điển | 180 | 673.532 | 6,51 | -8,46 |
Nga | 9 | 97.572 | -99,69 | -97,25 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Nguồn: VITIC
Theo Vinanet.vn
4 tháng đầu năm 2019, lượng xăng dầu nhập khẩu giảm 29,8% so với cùng kỳ năm 2018, đạt 3,07 triệu tấn và kim ngạch cũng giảm 33,1%, đạt 1,89 tỷ USD.
So với cùng kỳ 2018, kim ngạch nhập khẩu thuốc tính từ đầu năm đến hết tháng 3/2019 đạt 700 triệu USD, tăng 16,2% so với cùng năm trước, tính riêng tháng 3/2019 kim ngạch đạt 255 triệu USD, tăng 42,3% so với tháng 2/2019.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu nhóm hàng xăng dầu của Việt Nam ra thị trường nước ngoài tăng rất mạnh trong 4 tháng đầu năm 2019, tăng 57,7% về lượng và tăng 61,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018, đạt 1,15 triệu tấn, tương đương 709,48 triệu USD.
Mexico hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam tại Mỹ Latinh, và ngược lại, Việt Nam hiện đang là thị trường lớn thứ tám của Mexico ở Châu Á. Kim ngạch trao đổi thương mại song phương đạt hơn 4 tỷ USD trong năm 2018, và Việt Nam xuất siêu sang nước này.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 4/2019 đạt 275 triệu USD, giảm 20,26% so với tháng trước đó và giảm 21,2% so với cùng tháng năm ngoái.
Trong cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc trong quý 1/2019, mặt hàng ôtô tuy kim ngạch chỉ đạt trên 40 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ tăng vượt trội.
Quý 1/2019, Trung Quốc tăng mạnh nhập khẩu xi măng, chè, dầu thô và hóa chất từ Việt Nam, đều tăng gấp trên 2 lần so với cùng kỳ năm 2018.
Xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ 3 tháng đầu năm 2019 đạt gần 13,32 tỷ USD, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong quý 1/2019 kim ngạch xuất khẩu túi xách, va li, ô dù ra thị trường nước ngoài đạt 841,23 triệu USD, tăng 10,4% so với quý 1/2018; trong đó riêng tháng 3/2019 đạt 299,8 triệu USD, tăng mạnh 82,5% so với tháng 2/2019 và tăng 9,7% so với tháng 3/2018.
Tuy là thị trường đứng thứ tư về lượng bông nhập khẩu trong quý 1/2019, nhưng tốc độ tăng trưởng từ Achentina tăng đột biến cả về lượng và trị giá so với quý 1/2018.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự