Rõ ràng xuất khẩu nhiên liệu của Trung Quốc tăng vọt đã làm giảm lợi nhuận của các nhà máy lọc dầu châu Á, nhưng nỗi đau dường như không được chia sẻ đồng đều khắp các nhà xuất khẩu sản phẩm dầu của khu vực này.
Thất nghiệp ở Nhật giảm do dân số già, không phải vì chính sách kinh tế
- Cập nhật : 10/08/2016
Tỷ lệ già hoá tăng trong khi dân số ngày càng giảm là nguyên nhân chính khiến thất nghiệp tại Nhật giảm.
Theo Thủ tướng Shinzo Abe, thị trường lao động Nhật là một trong những thành công chính trong chiến lược kinh tế của ông khi tỷ lệ thất nghiệp thất nhất trong 21 năm và tỷ lệ đơn xin việc được chấp thuận cao nhất trong 25 năm.
Tuy nhiên, thực tế không hoàn toàn như vậy. Những phân tích dựa trên các dự liệu trong một thời gian dài đã cho thấy tỷ lệ già hoá tăng trong khi dân số ngày càng giảm là nguyên nhân chính khiến thất nghiệp tại Nhật giảm. Trong lúc đó, với hơn 1 triệu việc làm mới được tao ra kể từ năm 2012, thị trường lao động cũng cho hầu hết sự thay đổi đều diễn ra ở những việc làm không cố định hoặc có thu nhập thấp.
Theo kinh tế gia của Viện nghiên cứu Nhật Bản, những gì ông đang thấy là lực lượng lao động đi xuống trong lúc nhu cầu lại đang tăng. Điều quan trọng nhất hiện nay là điều chuyển lao động từ những ngành có nhu cầu giảm sang những ngành đang cần nhân lực. Tuy nhiên những quy định mới lại không cho phép việc này diễn ra.
Theo dữ liệu của chính phủ Nhật, tỷ lệ đơn xin việc được chấp thuận trong tháng 6 là 1,37%cao nhất kể từ năm 1991 trong khi tỷ lệ thất nghiệp là 3,1%, thấp nhất kể từ năm 1995. Số người trong độ tuổi từ 15-64 đang ngày càng thu hẹp trong khi số người già lại tăng lên.
Các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng đang gặp khó khăn tuyển nhân công, điều này có thể là vấn đề đáng lo ngại khi Tokyo ngày càng có nhiều công trình xây dựng hạ tầng phục vụ Olympic 2020. Lĩnh vực công cũng gặp khó khăn, đặc biệt là dịch vụ chăm sóc người già.
Dữ liệu cũng cho thấy mức lương không có nhiều thay đổi và thu nhập trên cả nước không có biến động kể từ sau khi xảy ra khủng hoảng. Lý giải nằm ở việc nhìn vào những việc làm mới được tạo ra trong chính sách Abenomics (chính sách kinh tế kể từ khi Thủ tướng Abe lên nắm quyền): số việc làm không cố định tăng bao gồm việc làm bán thời gian và việc làm theo thời vụ. Số việc làm cố định vẫn thấp hơn so với cuối năm 2012, mặc dù khoảng cách được thu hẹp.
Nhật Linh Theo Bloomberg/NDH