Để tiết kiệm chi phí và thuận lợi hơn trong hoạt động XNK, nhiều DN sản xuất, XNK trong nước đã có xu hướng kết hợp, sáp nhập với DN logistics hoặc tự thành lập lĩnh vực kinh doanh logistics.
Xuất khẩu thủy sản tháng 3/2019 tăng mạnh sau 4 tháng giảm liên tiếp
- Cập nhật : 23/04/2019
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu nhóm hàng thủy sản tháng 3/2019 tăng trở lại sau 4 tháng sụt giảm liên tiếp kể từ tháng 11/2018, đạt 683,6 triệu USD, tăng rất mạnh 83,4% so với tháng 2/2019 nhưng giảm 2,7% so với cùng tháng năm 2018.
Tính chung tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả qúy 1/2019 đạt 1,79 tỷ USD, tăng nhẹ 1,4% so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý 1 năm nay có 6 thị trường xuất khẩu thủy sản đạt mức cao trên 100 triệu USD, đó là Nhật Bản, Mỹ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc và thị trường Đông Nam Á; trong đó xuất sang Nhật Bản đạt 306,59 triệu USD, chiếm 17,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2018.
Xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt 283,02 triệu USD, tăng 15,8%, chiếm 15,8 %. Xuất sang EU tăng mạnh 49%, đạt 270,14 triệu USD, chiếm 15,1%; xuất sang Trung Quốc đạt 196,59 triệu USD, chiếm 11%, giảm 4,3%; sang Hàn Quốc đạt 173,14 triệu USD, chiếm 9,7%, giảm 3,4%; xuất khẩu thủy sản sang Khu vực Đông Nam Á tăng rất mạnh 75,2% so với cùng kỳ, đạt 162,37 triệu USD, chiếm 9,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.
Các thị trường nổi bật về mức tăng trưởng xuất khẩu so với cùng kỳ năm trước gồm có: Ukraine tăng 113,3%, đạt 4,14 triệu USD; Iraq tăng 42,3%, đạt 2,59 triệu USD; Ai Cập tăng 57,3%, đạt 10,52 triệu USD; Mexico tăng 36,1%, đạt 38,32 triệu USD.
Ngược lại, các thị trường xuất khẩu sụt giảm mạnh so với cùng kỳ gồm: Saudi Arabia giảm 98,7%, chỉ đạt 0,17 triệu USD; Pakistan giảm 80%, đạt 2,09 triệu USD; Indonesia giảm 72,6%, đạt 0,27 triệu USD; Colombia giảm 36,2%, đạt 11,28 triệu USD.
Xuất khẩu thủy sản sang các đối tác của Việt Nam trong CPTPP, tăng trưởng tốt 15% so với cùng kỳ 2018, đạt 502 triệu USD; trong đó, xuất khẩu sang Nhật Bản, Canada, Mexico và Malaysia tăng trưởng khả quan. Mexico tăng 36,1%; Malaysia tăng gần 33%.
Xuất khẩu thủy sản sang Nhật tăng mạnh bởi theo các cam kết của nước này, đa số hàng thủy sản Việt Nam có thế mạnh được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi CPTPP có hiệu lực (cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghẹ...). Thậm chí, toàn bộ dòng thủy sản không cam kết xóa bỏ thuế ngay theo Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Nhật Bản cũng được hưởng thuế 0%.
Với Canada, một quốc gia khác mà Việt Nam chưa ký hiệp định thương mại tự do, xuất khẩu thủy sản sang thị trường này cũng tăng 11,6%, đạt 48,2 triệu USD.
Xuất khẩu thủy sản sang Mỹ được dự báo sẽ khả quan hơn sau khi Bộ Thương mại Mỹ công bố thuế sơ bộ đối với 31 doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam trong đợt rà soát hành chính thứ 13 là 0%. Dù chưa phải là quyết định chính thức, mức thuế này phần nào sẽ giúp việc xuất khẩu tôm sang Mỹ thuận lợi hơn, tăng sức cạnh tranh với Ấn Độ, Thái Lan…
Riêng với EU, theo đánh giá, việc bị “thẻ vàng” cảnh báo của EU liên quan tới hoạt động khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) đã làm ảnh hưởng xuất khẩu thủy sản sang khối thị trường này. Tuy nhiên, việc Hiệp định EVFTA có thể được phê chuẩn vào tháng 6 hoặc tháng 7/2019 được dự báo sẽ hỗ trợ xuất khẩu thủy sản.
Mặc dù có những tín hiệu tích cực, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn trong năm 2019. Các nước nhập khẩu ngày càng chú ý đến vấn đề an toàn thực phẩm và đưa ra nhiều rào cản phi thuế, giá nhiều mặt hàng giảm do cung vượt cầu, phải cạnh tranh gay gắt…
Tuy vậy, cùng với sự mở cửa của các thị trường CPTPP, nhu cầu về thủy sản nguyên liệu để chế biến và xuất khẩu ngày càng lớn, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực. Chẳng hạn trong 10 ngày đầu tháng 4, giá cá tra nguyên liệu tại An Giang tăng 1.000-1.500 đồng. Hiện giá cá tra thịt trắng và thịt hồng (trọng lượng 0,8-1 kg/con) dao động trong khoảng 24.000-25.500 đồng/kg mua tại hầm, quầng. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm ngoái, giá vẫn thấp hơn 3.500-4.500 đồng/kg.
Trong khi đó, giá tôm tại khu vực Tây Nam Bộ biến động rất ít. Đến ngày 12/4/2019, giá tôm nguyên liệu tại đầm Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau là 85.000-100.000 đồng/kg, với kích thước từ 100 con/kg đến 80 con/kg. Tôm cỡ 70 con/kg được rao bán ở 103.000-105.000 đồng/kg. Nhà máy Minh Phú Cà Mau đang chào giá tôm thẻ cỡ 100 con/kg ở mức thấp hơn, 81.000- 84.000 đồng/kg, tùy tiêu chuẩn kiểm tra kháng sinh.
Xuất khẩu thủy sản quý 1 năm 2019
ĐVT: USD
Thị trường | T3/2019 | +/- so T2/2019 (%)* | +/- so T3/2018 (%)* | Quý 1/2019 | +/- so với cùng kỳ (%)* |
Tổng kim ngạch XK | 683.599.651 | 83,38 | -2,66 | 1.792.061.332 | 1,37 |
Nhật Bản | 126.733.433 | 123,54 | 21,31 | 306.587.278 | 16,14 |
Mỹ | 104.934.252 | 72,84 | -2,66 | 283.024.899 | 4,27 |
EU | 109.367.599 | 105,66 | 49,84 | 270.135.837 | 48,98 |
Trung Quốc đại lục | 75.698.746 | 60,49 | -21,75 | 196.590.322 | -4,33 |
Hàn Quốc | 66.481.509 | 102,93 | -10,31 | 173.139.887 | -3,35 |
Đông Nam Á | 61.236.293 | 74,64 | 97,87 | 162.369.971 | 75,2 |
Thái Lan | 26.541.502 | 90,12 | 18,73 | 70.803.411 | 11,5 |
Anh | 19.054.642 | 37,04 | -22,04 | 56.975.176 | -0,04 |
Hà Lan | 21.323.604 | 111,95 | -24,54 | 51.389.550 | -23,28 |
Canada | 17.924.874 | 64,91 | 8,24 | 48.199.670 | 11,62 |
Australia | 16.546.080 | 89,84 | 0,03 | 43.076.817 | 1,78 |
Đức | 14.947.054 | 84,47 | -15,91 | 40.217.520 | -10,98 |
Hồng Kông (TQ) | 13.595.070 | 35,69 | -10,51 | 40.006.796 | -4,12 |
Mexico | 9.854.037 | 12,9 | 36,71 | 38.317.703 | 36,1 |
Malaysia | 14.599.072 | 95,43 | 50,35 | 32.270.107 | 33,16 |
Philippines | 10.098.645 | 54,47 | 53,65 | 28.679.926 | 33,76 |
Bỉ | 11.884.237 | 134,41 | 10,23 | 27.674.642 | -14,19 |
Đài Loan(TQ) | 9.812.768 | 53,67 | 36,72 | 25.521.538 | 26,13 |
Singapore | 7.363.691 | 39,26 | -21,47 | 24.303.546 | -8,53 |
Nga | 8.496.474 | 148,44 | 8,44 | 21.644.840 | 13,93 |
Pháp | 8.545.680 | 95,53 | -2,02 | 21.330.224 | -9,96 |
Italia | 11.144.114 | 255,21 | -3,34 | 21.272.429 | -25,71 |
Brazil | 3.967.168 | 24,01 | -44,42 | 19.428.661 | -16,87 |
Israel | 6.241.509 | 46,29 | -30,25 | 17.875.753 | -12,6 |
Tây Ban Nha | 7.703.239 | 227,75 | 12,65 | 17.622.123 | 25,64 |
U.A.E | 6.503.538 | 191,93 | -13,65 | 13.155.180 | -8,39 |
Colombia | 3.269.865 | -14,11 | -44,48 | 11.277.164 | -36,23 |
Ai Cập | 4.091.032 | 56,06 | 12,1 | 10.521.226 | 57,26 |
Bồ Đào Nha | 4.770.745 | 132,93 | -24,61 | 10.446.836 | -19,63 |
Đan Mạch | 3.387.204 | 78,32 | 16,03 | 9.131.894 | 11,32 |
Ấn Độ | 2.171.110 | 23,04 | -20,15 | 6.459.180 | -13 |
Thụy Sỹ | 2.317.949 | 63,23 | -24,05 | 5.858.268 | -14,28 |
Campuchia | 2.208.380 | 35,58 | -15,3 | 5.578.682 | -15,96 |
Ba Lan | 1.908.381 | 281,77 | 22,11 | 5.249.415 | 0,74 |
New Zealand | 1.892.801 | 98,68 | -14,18 | 5.074.534 | 4,72 |
Ukraine | 1.376.824 | 66,61 | 36,75 | 4.414.969 | 113,3 |
Chile | 1.302.182 |
|
| 3.722.750 |
|
Thụy Điển | 1.822.576 | 233,9 | -17,89 | 3.070.802 | -25,27 |
Hy Lạp | 1.422.420 | 136,69 | 40,04 | 2.803.514 | 17,26 |
Iraq | 1.216.156 | 213,62 | 54,71 | 2.590.860 | 42,28 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 769.216 | 68,76 | -20,74 | 2.341.241 | 23,77 |
Pê Ru | 567.994 |
|
| 2.129.499 |
|
Algeria | 1.780.053 |
|
| 2.099.074 |
|
Pakistan | 434.227 | -48,36 | -79,25 | 2.088.780 | -80,04 |
Romania | 854.588 | 99,25 | 94,19 | 1.890.476 | 26,95 |
Kuwait | 885.503 | 584,68 | -20,66 | 1.863.828 | -13,78 |
Panama | 521.200 |
|
| 1.799.360 |
|
Sri Lanka | 553.352 |
|
| 1.785.621 |
|
Na Uy | 722.581 |
|
| 1.737.617 |
|
Séc | 599.115 | 271,76 | 14,04 | 1.061.236 | -34,28 |
Brunei | 209.636 | 51,35 | 17,97 | 468.356 | -4,68 |
Senegal | 189.957 |
|
| 446.384 |
|
Angola | 73.930 |
|
| 325.930 |
|
Indonesia | 215.367 | 424,36 | -61,01 | 265.943 | -72,57 |
Saudi Arabia |
| -100 | -100 | 172.650 | -98,69 |
(*Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn