6 tháng đầu năm, lượng sắt thép cả nước nhập về là 6,88 triệu tấn, trị giá 4,93 tỷ USD, giảm 12,9% về lượng nhưng tăng 6,4% về trị giá so với cùng kỳ.

6 tháng đầu năm 2018 lượng hạt điều xuất khẩu đạt 175.078 tấn, trị giá 1,7 tỷ USD, tăng 15,7% về lượng và tăng 15,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2018 cả nước xuất khẩu 32.331 tấn hạt điều, giảm 11,4% so với tháng trước đó, thu về 293,17 triệu USD, giảm 14%. So với cùng tháng năm 2017 cũng giảm 6,3% về lượng và giảm 17% về kim ngạch.
Tính chung cả 6 tháng đầu năm 2018 lượng hạt điều xuất khẩu đạt 175.078 tấn, trị giá 1,7 tỷ USD, tăng 15,7% về lượng và tăng 15,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017.
Giá hạt điều xuất khẩu trong tháng 6/2018 đạt 9.068 USD/tấn, giảm 3% so với tháng 5/2018 và cũng giảm 11,6% so với tháng 6/2017. Tính trung bình trong cả 6 tháng đầu năm, giá xuất khẩu giảm nhẹ 0,2% so với cùng kỳ, đạt 9.699 USD/tấn.
Nhìn chung, xuất khẩu hạt điều sang phần lớn các thị trường trong 6 tháng đầu năm nay đều tăng cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm trước; trong đó đáng chú ý là xuất khẩu sang thị trường Ukraine mặc dù rất ít, chỉ 312 tấn, tương đương 2,89 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ năm trước thì tăng rất mạnh 275,9% về lượng và tăng 335,3% về kim ngạch. Xuất khẩu sang Hy Lạp cũng tăng mạnh 133,6% về lượng và tăng 139,9% về kim ngạch, đạt 278 tấn, tương đương 2,8 triệu USD.
Ngoài ra, xuất khẩu còn tăng mạnh ở thị trường Philippines tăng 94,5% về lượng và tăng 123% về kim ngạch; Pháp tăng 73,2% về lượng và tăng 73,8% về kim ngạch; Nam Phi tăng 48,8% về lượng và tăng 60,6% về kim ngạch.
Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm nay thị trường Pakistan giảm rất mạnh tiêu thụ hạt điều của Việt Nam, giảm 93,5% về lượng và giảm 94% kim ngạch so với cùng kỳ, đạt 14 tấn, tương đương 0,13 triệu USD. Bên cạnh đó, xuất sang U.A.E cũng giảm 18,8% về lượng và giảm 16% về kim ngạch, xuất sang Australia giảm 15,7% về lượng và giảm 17% về kim ngạch so với 6 tháng đầu năm ngoái.
Mỹ là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại hạt điều của Việt Nam chiếm 38% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước, đạt 66.416 tấn, tương đương 646,82 triệu USD, tăng 21,5% về lượng và tăng 19% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017.
Hạt điều xuất sang thị trường Hà Lan chiếm trên 12% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước, đạt 21.115 tấn, trị giá 218,37 triệu USD, giảm 6,4% về lượng và giảm 1,9% về kim ngạch.
Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chiếm 11% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 18.497 tấn, trị giá 178,03 triệu USD, tăng 0,7% về lượng và tăng 0,5% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Xuất khẩu hạt điều 6 tháng đầu năm 2018
Thị trường | 6T/2018 | +/- so với cùng kỳ (%) | ||
Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng cộng | 175.078 | 1.698.117.007 | 15,69 | 15,43 |
Mỹ | 66.416 | 646.824.927 | 21,53 | 19,05 |
Hà Lan | 21.115 | 218.372.321 | -6,44 | -1,86 |
Trung Quốc | 18.497 | 178.033.459 | 0,66 | 0,49 |
Anh | 7.126 | 66.569.564 | 0,06 | 1,13 |
Canada | 5.210 | 54.845.800 | 32,77 | 37,34 |
Đức | 5.271 | 53.421.146 | 36,34 | 39,72 |
Australia | 5.246 | 49.497.526 | -15,65 | -17,02 |
Thái Lan | 4.298 | 40.653.582 | 11,38 | 6,48 |
Israel | 3.031 | 30.641.315 | 34,12 | 22,57 |
Nga | 3.195 | 30.569.795 | 32,08 | 29,93 |
Italia | 3.789 | 29.626.976 | 41,22 | 53,54 |
Pháp | 2.186 | 23.794.559 | 73,22 | 73,81 |
Ấn Độ | 2.621 | 19.300.350 | 18,92 | 11,84 |
Tây Ban Nha | 1.808 | 18.079.463 | 48,2 | 41,15 |
Nhật Bản | 1.713 | 16.546.261 | 28,12 | 34,78 |
Bỉ | 1.289 | 13.079.333 | 46,64 | 44,82 |
U.A.E | 1.549 | 12.364.258 | -18,77 | -16,02 |
New Zealand | 1.235 | 11.425.247 | -2,6 | -2,9 |
Đài Loan(TQ) | 1.076 | 11.009.753 | 28,4 | 24,98 |
Hồng Kông (TQ) | 793 | 9.124.579 | 16,28 | 18,73 |
Philippines | 846 | 7.783.108 | 94,48 | 123,11 |
Na Uy | 619 | 6,273,798 | 31,7 | 33,37 |
Nam Phi | 576 | 5,775,080 | 48,84 | 60,58 |
Singapore | 363 | 3,488,040 | -9,25 | -11,57 |
Ukraine | 312 | 2,891,815 | 275,9 | 335,33 |
Hy Lạp | 278 | 2,802,062 | 133,61 | 139,86 |
Pakistan | 14 | 131,354 | -93,49 | -94,02 |
(Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
6 tháng đầu năm, lượng sắt thép cả nước nhập về là 6,88 triệu tấn, trị giá 4,93 tỷ USD, giảm 12,9% về lượng nhưng tăng 6,4% về trị giá so với cùng kỳ.
Tuy là nhóm hàng chỉ xếp thứ 24 trong bảng xếp loại, nhưng 6 tháng đầu năm 2018 xuất khẩu dây điện và dây cáp điện sang thị trường Anh tăng đột biến, gấp 4,3 lần so với cùng kỳ 2017.
Cán cân thương mại thâm hụt mạnh trong 15 ngày đầu tháng 7 khiến kim ngạch xuất siêu lũy kế từ đầu năm giảm. Đáng quan tâm là kim ngạch xuất khẩu liên tiếp có chiều hướng giảm.
Trung Quốc đang là thị trường có mức tăng trưởng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong những tháng vừa qua.
6 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu thủy sản đạt 860,67 triệu USD, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm 2017.
5 tháng đầu năm 2018, Việt Nam giảm nhập khẩu thép từ thị trường thế giới, đặc biệt là từ Trung Quốc, sau khi Mỹ tung “đòn” áp thuế nhằm ngăn chặn thép giá rẻ từ Trung Quốc.
Nếu như tháng 5/2018 xuất khẩu phân bón của cả nước đã lấy lại đà tăng trưởng, thì nay sang tháng 6 giảm trở lại, giảm 33,3% về lượng và 33,3% trị giá so với tháng trước tương ứng với 65,4 nghìn tấn; 21,1 triệu USD.
6 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng 9,66% so với cùng kỳ, trong đó các nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng chiếm 78,3% và ngược lại nhóm hàng suy giảm chỉ chiếm 21,6%.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, thủy sản của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2018 tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 3,97 tỷ USD. Riêng tháng 6/2018 đạt 764,04 triệu USD, giảm nhẹ 0,2% so với tháng 5/2018.
Trong 2 quí đầu năm cả nước xuất khẩu 1,88 triệu tấn dầu thô, thu về 1,05 tỷ USD, giảm rất mạnh 50,9% về lượng và giảm 31,4% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự