Ngoại trưởng Mỹ John Kerry dự kiến thúc giục các nước Đông Nam Á đoàn kết đối phó yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc ở biển Đông
5 tàu sân bay "hủy diệt" nhất mọi thời đại
- Cập nhật : 10/08/2015
Tàu sân bay thực sự đầu tiên được đưa vào biên chế từ cuối Thế chiến I, khi hải quân hoàng gia Anh chuyển đổi những tàu chiến quá lớn thành sân bay nổi. Quá trình hiện đại hóa sau đó đã cho ra đời những hàng không mẫu hạm “hủy diệt”.
Sau khi hải quân hoàng gia Anh cho ra đời tàu sân bay đầu tiên, trong những năm sau đó cho tới trước Thế chiến II, Nhật và Mỹ cũng nhanh chóng chuyển đổi nhiều tàu hải quân thành những sân bay nổi, trước khi đóng những tàu sân bay thực sự. Và chỉ trong vòng vài tháng sau khi Thế chiến II nổ ra tháng 9/1939, các tàu sân bay đã chứng tỏ giá trị của mình trong các nhiệm vụ trên biển.
Sau đây là 5 tàu sân bay “hủy diệt” nhất từng tham chiến, căn cứ theo vai trò trong các nhiệm vụ quan trọng, tuổi thọ và độ bền.
USS Enterprise
Sau khi chuyển đổi các chiến hạm Lexington và Saratoga thành tàu sân bay, hải quân Mỹ đã bổ sung vào lực lượng của mình một “hàng không mẫu hạm” được đóng mới hoàn toàn có tên USS Ranger.
Kinh nghiệm có được từ việc sử dụng 3 tàu sân bay này đã góp phần cho ra đời USS Enterprise, với kích thước lớn hơn, boong cất cánh dài hơn và được trang bị hệ thống phòng không uy lực hơn những người tiền nhiệm.
Cùng thuộc lớp với USS Enterprise còn có USS Yorktown và USS Hornet. Những tàu này đã đóng góp vai trò then chốt trong việc chặn đứng đà tấn công của hải quân phát xít Nhật năm 1942. Với vận tốc hành trình 33 hải lý/giờ, Enterprise có lượng giãn nước 24.000 tấn và có thể mang tới 90 chiến đấu cơ.
Trong khi Hornet và Yorktown bị đánh chìm trong các trận chiến năm 1942, Enterprise phục vụ cho tới hết Thế chiến II. Tàu sân bay này đã giúp truy lùng hạm đội của Nhật sau vụ Trân Châu Cảng, và thực hiện những cuộc oach tạc đáp trả đầu tiền trong những tháng đầu Mỹ tham chiến.
Enterprise đã hộ tống Hornet trong cuộc tập kích Doolittle, trước khi giúp đánh chìm 4 tàu sân bay Nhật trong trận chiến Midway trên Thái Bình Dương. USS Enterprise cùng các tàu sân bay Mỹ khác ra đời sau đó trở thành nòng cốt trong lực lược chống phản công, giúp đẩy lùi quyền kiểm soát của hải quân phát xít Nhật trên Thái Bình Dương.
Enterprise cũng từng tham chiến trên Biển Philippines và Vịnh Leyte, giúp phá hủy trái tim của hải quân không quân Nhật khi đó. Năm 1945, chính hàng không mẫu hạm này đã tham gia những cuộc tập kích cuối cùng vào Nhật Bản, trước khi bị hư hỏng nặng do bị không quân Nhật tập kích tháng 5/1945.
Trở lại làm nhiệm vụ khi chiến tranh đã kết thúc, USS Enterprise đã giúp vận chuyển lính Mỹ trở về sau Chiến dịch Thảm thần (Operation Magic Carpet) tại Yemen. Đây chính là chiến hạm lẫy lừng nhất trong Thế chiến II, nhưng đáng buồn là những nỗ lực bảo tồn nó đã không thành công. Năm 1960, USS Enterprise bị phá dỡ.
HMS Illustrious
Trong giai đoạn tháng 9/1939 – 4/1942, hải quân hoàng gia Anh đã bị mất 5/7 tàu sân bay trong biên chế. Để bổ sung lực lượng, HMS Illustrious cùng 3 “chị em” khác đã ra đời. Hạ thủy năm 1937, Illustrious nổi trội hơn hẳn các đối thủ từ Nhật và Mỹ với mặt boong bọc thép, dù chỉ chứa được 36 máy bay. Tàu có thể đạt vận tốc 30 hải lý/giờ với lượng giãn nước 23.000 tấn.
Hạ thủy năm 1937, Illustrious nổi trội hơn hẳn các đối thủ từ Nhật và Mỹ với mặt boong bọc thép, dù chỉ chứa được 36 máy bay. Tàu có thể đạt vận tốc 30 hải lý/giờ với lượng giãn nước 23.000 tấn.
Chiến công lớn đầu tiên của Illustrious đến vào tháng 11/1940, khi các chiến đấu cơ Swordfish mang ngư lôi trên tàu oanh tạc chiến hạm của hải quân Ý, thả neo tại vịnh Taranto, trên Địa Trung Hải. Dù có quy mô nhỏ hơn nhiều so với các trận chiến Thái Bình Dương, vụ tấn công vẫn đánh đắm và làm hư hại nặng 3 chiến hạm của Ý.
Những tháng sau đó, tàu tiếp tục thực hiện nhiều vụ tấn công tại Địa Trung Hải, cũng như thực hiện nhiệm vụ di tản tại Hy Lạp. Nhiều lần không quân của phát xít Đức đã điều các phi đội ném bom tiêu diệt HMS Illustrious nhưng bất thành.
Sau khi được sửa chữa tại Mỹ, HMS Illustrious tham chiến chống lại phát xít Nhật tại Ấn Độ Dương, trước khi trở lại châu Âu năm 1943 với các chiến dịch tại Na-uy và hỗ trợ quân Đồng minh đổ bộ tại Ý.
Sau đó tàu được điều quay lại Thái Bình Dương, đón các chiến đấu cơ hiện đại của Mỹ, và đi đầu trong các chiến dịch chống phản công của hải quân Anh tại Đông Nam Á, trước khi bị phá dỡ năm 1957.
HIJMS Zuikaku
Zuikaku đại diện cho đỉnh cao của công nghệ đóng tàu sân bay thời trước chiến tranh của Nhật. Cùng với “em gái” Shokaku, Zuikaku đã giữ vai trò quan trọng trong hải quân phát xít Nhật thời đó. Có lượng giãn nước 32.000 tấn, tàu có thể mang 72 chiến đấu cơ, di chuyển ở vận tốc tối đa 34 hải lý/giờ. Zuikaku từng đứng vững trước nhiều hư hại khi tham chiến.
Kích thước và độ hiện đại của các tàu sân bay này đồng nghĩa với việc chúng có thể đáp ứng những diễn biến nhanh khi cuộc chiến vừa diễn ra. Sau cuộc tập kích Trân Châu Cảng, Shokaku và Zuikaku đã tham gia các cuộc oanh tạc trên Ấn Độ Dương, giúp đánh chìm tàu sân bay Hermes của Anh và nhiều tàu chiến khác.
Sau đó, Shokaku và Zuikaku được triển khai tới Cảng Moresby để yểm trợ cho binh lính Nhật đổ bộ xuống khu vực sau đó diễn ra trận chiến Biển Coral. Zuikaku trở về không hề hấn và giúp đánh đắm chiến hạm USS Lexington của Mỹ. Chỉ vì thiếu máy bay, Zuikaku không thể tham gia trận chiến Midway trên Thái Bình Dương.
Đến năm 1944, Zuikaku tiếp tục là một phần cốt lõi của hạm đội tàu sân bay Nhật, tham gia và trụ lại sau các trận chiến Guadalcanal (giúp đánh đắm tàu USS Hornet của Mỹ) và trận chiến Biển Philippines. Đến tháng 10/1944, lượng máy bay và phi công của tàu hầu như cạn kiệt vì tham chiến thường xuyên.
Tại trận chiến Vịnh Leyte Gulf, Zuikaku và một số tàu sân bay khác được dùng làm mồi nhử các chiến hạm của đối phương. Và chiến hạm cuối cùng còn lại sau cuộc tập kích Trân Châu Cảng đã bị đánh đắm bởi một cơn mưa bom và ngư lôi.
USS Midway
USS Midway được đưa vào biên chế tháng 9/1945, không lâu sau khi cuộc chiến với phát xít Nhật kết thúc. Tàu có lượng giãn nước 45.000 tấn và có thể chở gần 100 máy bay, di chuyển ở vận tốc 33 hải lý/giờ.
Midway và những người chị em của nó là một bước phát triển cao hơn của các tàu sân bay lớp Essex, vốn đã chiến thắng trên Thái Bình Dương, và hứa hẹn mở ra một kỷ nguyên mới của không quân trong biên chế hải quân.
Khi được đưa vào biên chế, Midway đã trở thành tàu sân bay “hủy diệt” nhất thế giới. Hỏa lực của nhóm tàu sân bay này vượt xa các tàu sân bay lớp Essex trong biên chế. Sở hữu trên boong các máy bay ném bom A-2, Midway và các “chị em” khi ấy là những tàu sân bay duy nhất sở hữu năng lực tấn công hạt nhân.
Được hiệu chỉnh nhiều lần trong thời gian làm nhiệm vụ, Midway sau đó đã sở hữu mặt boong nằm ở nghiên cùng nhiều cải tiến khác. Tàu từng tham chiến tại Việt Nam và sau đó tiếp tục phục vụ như một “siêu tàu sân bay”.
Trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1990, Midway đã tham chiến tích cực do kích thước tương đối nhỏ so với các siêu tàu sân bay hiện đại hơn, đem lại lợi thế trong di chuyển. Khi được giải ngũ năm 1992, Midway chứng kiến rất nhiều thay đổi trong ngành không quân hải quân, khi đón từ những chiếc F6F Hellcat tới những chiếc F/A-18 Hornet hiện đại.
USS Theodore Roosevelt
Kể từ khi được đưa vào biên chế cuối những năm 1970, các tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz đã độc chiếm vị trí tàu chỉ huy của thế giới. Được đóng trong suốt gần 35 năm, lớp tàu sân bay này hiện tiếp tục là nòng cốt trong sức mạnh hải quân Mỹ.
Trong số những tàu tích cực nhất của lớp Nimitz này có USS Theodore Roosevelt, được đưa vào biên chế năm 1986. Tàu có lượng giãn nước 100.000 tấn, chở được từ 75-80 chiến đấu cơ, với vận tốc tối đa 30 hải lý/giờ.
Roosevelt hiện diện trong hầu hết các cuộc chiến thời hậu Chiến tranh Lạnh. Nằm 1991, tàu đã tham gia chiến dịch không kích Iraq trong chiến dịch Bão táp sa mạc. Năm 1999, cũng tàu sân bay này đã thực hiện các cuộc tấn công vào Kosovo và Serbia.
Sau các vụ khủng bố ngày 11/9/2001, Roosevelt được triển khai tới Trung Đông và tham gia vào các cuộc oanh kích đầu tiên vào mạng lưới khủng bố Al Qaeda và Taliban. Hai năm sau, các chiến đấu cơ từ USS Roosevelt đã oanh tạc mục tiêu tại Iraq trong những ngày đầu của chiến dịch Tự do cho người Iraq.
Sau khi được tu sửa, Roosevelt tiếp tục tham chiến tại Afghanistan và Iraq. Gần đây nhất, tàu này tham gia phong tỏa các cảng tại Yemen để chặn các hoạt động nghi của tàu chở vũ khí từ Iran.