Quá trình đầu tư cho tiêu chuẩn FSC tốn kém nhiều công sức và thời gian, nhưng đây vẫn là “giấc mơ chung” của các doanh nghiệp ngành gỗ.

Theo Hiệp hội cao su Việt Nam, việc doanh nghiệp trốn thuế, hoặc làm hồ sơ khống để được hoàn thuế VAT 5% gây khó khăn cho cơ quan quản lý.
Xin cơ chế thuế
Thông tin từ Hiệp hội Cao su Việt Nam cho thấy, cao su thiên nhiên chiếm phần lớn tổng lượng kim ngạch xuất khẩu của ngành cao su, 85% cao su thiên nhiên dùng để xuất khẩu.
Nếu năm 2011, giá cao su đạt đỉnh điểm nhờ chính sách kích cầu tại nhiều nước thì từ năm 2012 đến nay, ngành cao su liên tục gặp nhiều khó khăn do nhu cầu tiêu thụ trên thế giới tăng trưởng thấp (nhu cầu nguyên liệu cao su cho lốp xe và sản phẩm cao su của ngành ô tô và nhiều ngành công nghiệp khác tăng rất chậm, chỉ khoảng 1,8%).
Không chỉ khó khăn ở thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp làm ăn chân chính còn đang phải chịu sức ép từ những doanh nghiệp làm ăn gian dối.
Ông Võ Hoàng An, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội cao su Việt Nam cho hay, với mặt hàng cao su thiên nhiên, trong quá trình sản xuất kinh doanh có 1, 2 doanh nghiệp thương mại mua hàng với thuế VAT 5% và khi xuất khẩu được hoàn lại. Tuy nhiên, từ năm 2015 ngành cao su gặp một số trục trặc về vấn đề thuế.
Ông An khẳng định: "Chúng tôi đã có báo cáo với Bộ Tài chính về vấn đề có doanh nghiệp qua nhiều khâu trung gian để trốn thuế, một số doanh nghiệp không xuất khẩu nhưng vẫn có hồ sơ xuất khẩu khống để rút tiền nhà nước. Điều này gây khó khăn với cơ quan quản lý thuế phải kiểm tra nhiều khâu trung gian. Trong khi doanh nghiệp làm ăn chân chính thì kẹt vốn và tiền hoàn thuế thì chưa được hoàn".
Trước những khó khăn của thị trường thế giới, ông An cho rằng, ngành cao su cần được sự hỗ trợ của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương thông qua các chính sách phù hợp để tháo gỡ những vướng mắc.
Cụ thể, Hiệp hội này kiến nghị Bộ Tài chính và các bộ ngành, địa phương xem xét, giải quyết cho ngành cao su áp dụng chính sách thuế VAT đối với mủ cao su sơ chế như những nông sản sơ chế khác. Đó là, không phải kê khai, tính nộp thuế VAT để không phải chờ đợi được hoàn thuế sau khi xuất khẩu, giúp doanh nghiệp hạn chế chi phí phát sinh.
Khó cạnh tranh
Ngoài những khó khăn trên, theo ông An, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt việc miễn giảm thuế nhập khẩu về 0% từ các hiệp định thương mại mang đến cho ngành cao su Việt Nam nhiều thách thức lớn.
Cụ thể, khi thuế nhập khẩu cao su thiên nhiên từ các nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan và Indonesia vào Việt Nam giảm xuống còn 0%, các nhà chế biến lốp xe tại Việt Nam có thể chọn nguồn nguyên liệu nhập khẩu vì chất lượng đảm bảo và chủng loại phù hợp hơn.
Bên cạnh đó, các sản phẩm cao su (như lốp xe, găng tay, nệm gối, cao su kỹ thuật…) của các nước có ký kết thỏa thuận thương mại với Việt Nam khi nhập khẩu vào Việt Nam được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0% sẽ tạo áp lực cạnh tranh gay gắt với các mặt hàng cao su Việt Nam vì ưu thế về chất lượng, mẫu mã và giá cả, gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Để có thể cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài, Hiệp hội Cao su Việt Nam cho rằng, doanh nghiệp cần nhanh chóng nâng cao chất lượng và đảm bảo uy tín, xây dựng và củng cố thương hiệu, chuyển đổi cơ cấu nguyên liệu cao su thiên nhiên phù hợp với thị trường xuất khẩu và trong nước.
Hiện nay, kinh phí hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại đối với ngành cao su còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ít có khả năng tìm nguồn khách hàng mới.
Mấy năm gần đây, các doanh nghiệp cao su đều "tự thân vận động" bằng cách tổ chức hội nghị doanh nghiệp cao su. Theo đó doanh nghiệp các nước sẽ "tề tựu" để bàn với nhau dự báo thị trường, giá cả, cung cầu để có sự điều tiết.
Dù vậy, ông An vẫn mong tiếp tục được tăng cường hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động xúc tiến để mở rộng và đa dạng hóa thị trường, giảm rủi ro do lệ thuộc lớn vào một vài thị trường.
Đặc biệt, đẩy nhanh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất khẩu để tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp đảm bảo thời hạn giao hàng và giảm thiểu chi phí cũng là mong muốn của doanh nghiệp ngành này.
Quá trình đầu tư cho tiêu chuẩn FSC tốn kém nhiều công sức và thời gian, nhưng đây vẫn là “giấc mơ chung” của các doanh nghiệp ngành gỗ.
Dệt may và da giày là hai ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam mang về hàng chục tỷ USD mỗi năm. Thế nhưng, lợi nhuận từ việc xuất khẩu này phần lớn lại không thuộc về doanh nghiệp trong nước mà nằm ở khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Với nguồn cung xi măng gia tăng thêm 3,6 triệu tấn, trong khi dự báo tổng cầu với mặt hàng này chỉ tăng khoảng 3-7% trong năm 2016, khiến các nhà sản xuất xi măng sẽ phải cạnh tranh khốc liệt.
Tập đoàn IMPSA (Argentina) từng lên kế hoạch đầu tư hàng tỷ USD vào Việt Nam để phát triển điện gió, song đến nay, mọi dự định dường như tắt lịm.
Quyết định của Tập đoàn Tata Steel (Ấn Độ) bán toàn bộ các nhà máy tại nước Anh đã đẩy ngành công nghiệp thép của “xứ sở sương mù” chìm vào khủng hoảng, đồng thời khơi mào cho một làn sóng phản đối thép giá rẻ từ Trung Quốc trên lục địa châu Âu.
Cơ hội cho ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) được mở ra rất lớn nhưng ngành công nghiệp này ở Việt Nam đang phải đối mặt với khá nhiều cản trở.
Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) vừa công bố báo cáo tình hình sản xuất và bán hàng các sản phẩm thép tháng 3 và quý 1 năm 2016. Theo đó, Vnsteel dẫn đầu thị phần, chiếm 24,65% với sản lượng tiêu thụ 498.220 tấn thép trong Quý 1.
Xuất phát từ lo ngại khi Bờ Biển Ngà nắm được công nghệ, máy móc chế biến điều sẽ đe dọa nghiêm trọng sự phát triển của ngành điều Việt Nam, các doanh nghiệp điều vừa có văn bản “kêu cứu” lần hai, đề nghị nhiều bộ, ngành, cơ quan liên quan ngăn cản chương trình hợp tác chuyển giao công nghệ, máy móc chế biến điều giữa Trường Đại học Bách khoa TP.HCM và Hội đồng Bông và điều Bờ Biển Ngà.
Xuất khẩu dệt may, da giày của Việt Nam sẽ được hưởng lợi lớn nhờ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), tuy nhiên để tận dụng cơ hội này, các DN trong ngành phải nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như khả năng tuân thủ các nguyên tắc theo cam kết trong hiệp định.
Đã có nhiều điểm tích cực trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII HC) vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, theo Quy hoạch điện VII HC, hơn một nửa hệ thống điện vẫn phụ thuộc vào nhiệt điện than trong đó 2/3 nguồn nhiên liệu phụ thuộc vào bên ngoài.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự