Thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng kim ngạch XNK của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 5 (từ 1-15/5/2018) đạt 18,93 tỷ USD, tăng nhẹ 3,7% (tương ứng tăng 667 triệu USD) so với nửa cuối tháng 4.

Séc là thị trường đáng quan tâm nhất về xuất khẩu sản phẩm túi xách, va li, ô dù , với mức tăng rất mạnh 168,4% về kim ngạch so với cùng kỳ, mặc dù kim ngạch chỉ đạt 1,79 triệu USD trong 4 tháng.
Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng túi xách, ví, va li, mũ, ô, dù của Việt Nam ra thị trường nước ngoài đạt 1,05 tỷ USD, giảm nhẹ 2,3% so với cùng kỳ năm 2017; Trong đó, riêng tháng 4/2018, kim ngạch đạt 284,87 triệu USD, tăng 4,3% so với tháng 3/2018 nhưng giảm 9,5% so với tháng 4/2017.
Mỹ luôn là thị trường tiêu thụ nhiều nhất nhhóm hàng này của Việt Nam, chiếm 36% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt 376,56 triệu USD, giảm 14,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhật Bản là thị trường lớn thứ 2 tiêu thụ nhóm hàng này của Việt Nam, chiếm 11,9%, đạt 124,4 triệu USD, tăng 1,4%. Tiếp đến thị trường Hà Lan chiếm 10,4%, đạt 108,52 triệu USD, tăng 5,9%.
Các nước EU nói chung tiêu thụ trên 28% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm túi xách, va li, ô dù của Việt Nam, đạt 294,28 triệu USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ.
Trong số 28 thị trường chủ yếu xuất khẩu túi xách, ví, va li, mũ, ô, dù của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm nay, thì có 16 thị trường đạt mức tăng kim ngạch, còn lại 12 thị trường sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Séc là thị trường đáng quan tâm nhất, với mức tăng rất mạnh 168,4% về kim ngạch so với cùng kỳ, mặc dù kim ngạch chỉ đạt 1,79 triệu USD trong 4 tháng. Riêng tháng 4/2018 xuất sang thị trường này cũng tăng mạnh 377% so với tháng 4/2017, đạt 0,51 triệu USD.
Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tăng mạnh ở một số thị trường như: Ba Lan tăng 68,7%, đạt 3,95 triệu USD; Brazil tăng 33,5%, đạt 3,48 triệu USD; Australia tăng 27%, đạt 15,01 triệu USD.
Ngược lại, xuất khẩu va li, túi xách sụt giảm mạnh so với cùng kỳ ở một số thị trường như: Malaysia giảm 25,9%, đạt 3,08 triệu USD; Đan Mạch giảm 24,3%, đạt 2,67 triệu USD; Singapore giảm 21,2%, đạt 5,73 triệu USD.
Xuất khẩu túi xách, ví, va li 4 tháng đầu năm 2018
ĐVT: USD
Thị trường | T4/2018 | % tăng giảm so với T3/2018 | 4T/2018 | % tăng giảm so với cùng kỳ |
Tổng Kim ngạch XK | 284.873.579 | 4,27 | 1.046.619.355 | -2,26 |
Mỹ | 112.353.741 | 23,35 | 376.558.480 | -14,3 |
Nhật Bản | 28.905.076 | -13,31 | 124.400.026 | 1,38 |
Hà Lan | 28.743.786 | 0,61 | 108.522.852 | 5,93 |
Đức | 14.946.814 | -7,61 | 56.592.126 | 5,93 |
Hàn Quốc | 8.745.143 | -18,06 | 50.103.261 | 12,46 |
Trung Quốc | 15.115.189 | 0,97 | 47.981.091 | 8,09 |
Pháp | 9.639.162 | 5,27 | 33.261.621 | 7,45 |
Bỉ | 7.394.856 | -23,54 | 32.848.015 | 9,11 |
Anh | 7.385.516 | 1,78 | 24.886.150 | 10,75 |
Hồng Kông | 4.510.752 | -43,93 | 21.373.696 | -13,74 |
Canada | 5.922.184 | 26,8 | 18.767.551 | -3,27 |
Italia | 4.088.480 | 1,19 | 17.101.518 | 14,22 |
Australia | 4.411.233 | 5,12 | 15.009.332 | 27,05 |
U.A.E | 4.265.488 | 62,51 | 9.723.720 | -10,24 |
Nga | 2.047.542 | -7,74 | 7.911.643 | 25,35 |
Tây Ban Nha | 1.550.675 | -34,1 | 7.393.096 | 21,11 |
Singapore | 1.575.349 | 31,63 | 5.727.995 | -21,16 |
Thụy Điển | 1.088.665 | -23,07 | 5.264.767 | -6,76 |
Đài Loan | 941.944 | -29,59 | 4.627.957 | -11,04 |
Thái Lan | 1.457.409 | 16,11 | 4.571.610 | -14,96 |
Ba Lan | 1.059.273 | -12,21 | 3.951.691 | 68,7 |
Mexico | 1.737.693 | 91,75 | 3.921.172 | -16,82 |
Brazil | 979.705 | 22,22 | 3.480.801 | 33,47 |
Malaysia | 881.494 | 48,17 | 3.075.347 | -25,93 |
Đan Mạch | 523.394 | 31,24 | 2.667.186 | -24,34 |
Na Uy | 733.543 | 989,93 | 1.965.379 | 8,87 |
Thụy Sỹ | 422.260 | 189,42 | 1.821.920 | -10,23 |
Séc | 507.206 | 3,31 | 1.789.324 | 168,41 |
(Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet
Thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng kim ngạch XNK của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 5 (từ 1-15/5/2018) đạt 18,93 tỷ USD, tăng nhẹ 3,7% (tương ứng tăng 667 triệu USD) so với nửa cuối tháng 4.
Trong rổ hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Bỉ 4 tháng đầu năm nay thì nhóm hàng sắt thép có tốc độ tăng vượt trội, tuy kim ngạch chỉ đạt 92,8 triệu USD đạt 123,2 nghìn tấn, nhưng tăng gấp 8 lần về lượng và 6 lần về kim ngạch so với cùng kỳ 2017.
Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu rau quả ra thị trường nước ngoài trong 4 tháng đầu năm 2018 tăng 29,1% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 1,32 tỷ USD.
Số liệu thống kê TCHQ cho biết, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Ấn Độ trong 4 tháng đầu năm 2018 đã tăng hơn 104% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 2,1 tỷ USD.
Nhờ cải thiện tốt chất lượng sản phẩm, tận dụng những thuận lợi của thị trường nên tình hình XK gạo đang rất khả quan.
Quyết định này đánh dấu một chiến thắng cho các nhà sản xuất thép của Mỹ...
Xuất khẩu hạt điều trong 4 tháng đầu năm đã mang về cho VN hơn 1 tỉ USD, tăng hơn 35% về giá so cùng kỳ - mức tăng giá kỷ lục của ngành điều.
Với việc chủ động trong đàm phán và linh hoạt trong tìm kiếm các thị trường thay thế, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản nỗ lực vượt các rào cản thương mại để cá tra-basa Việt Nam tiếp tục có mặt tại thị trường Mỹ và nhiều thị trường lớn khác trên thế giới.
Các doanh nghiệp cần phối hợp xây dựng chuỗi cung ứng sản xuất hàng xuất khẩu đi Mỹ nhằm đem lại nhiều giá trị gia tăng cho hàng hóa của Việt Nam
4 triệu tấn hoa quả (tương đương 100 tỷ nhân dân tệ) là những gì thị trường Trung Quốc đang cần. Cơ hội nào cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam đối với thị trường lớn như Trung Quốc?
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự