Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018, cả nước nhập khẩu 11,98 triệu tấn than đá, trị giá 1,39 tỷ USD, tăng mạnh trên 51% về lượng và tăng 73% về kim ngạch so với 7 tháng đầu năm 2017.

7 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu kim loại và sản phẩm đóng góp vào kim ngạch của cả nước trên 1,3 tỷ USD.
Theo thống kê của TCHQ, kim loại xuất khẩu kim loại thường khác và sản phẩm của Việt Nam trong tháng 7/2018 giảm nhẹ 2,15% so với tháng 6/2018, nhưng nếu so với tháng 7/2017 tăng 39,35%. Tính chung từ đầu năm đến hết tháng 7/2018 thu về trên 1,3 tỷ USD, tăng 37,07% so với cùng kỳ năm 2017.
Nhóm hàng kim loại và sản phẩm được xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á chiếm 71% tổng kim ngạch.
Trong số những thị trường chủ lực thì Ấn Độ chiếm tỷ trọng lớn nhất 25,8% đạt 352,9 triệu USD, tăng 38,8% so với cùng kỳ 2017. Tính riêng tháng 7/2018, kim ngạch xuất khẩu thị trường Ấn Độ giảm 16,03% so với tháng 6/2018 nhưng tăng 26,82% so với tháng 7/2017.
Chiếm tỷ trọng lớn đứng thứ hai là thị trường Mỹ chiếm 14,9%, đạt 203,7 triệu USD, tăng 39,88%, nếu tính riêng tháng 7/2018 thì kim ngạch giảm 12,87% so với tháng 6/2018, nhưng tăng 10,26% so với tháng 7/2017. Kế đến là các nước Đông Nam Á, Nhật Bản, Hàn Quốc lần lượt chiếm 13,1%; 9,7% và 7,3% và đều có tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ, tăng tương ứng 19,21%; 15,85% và 3,41%.
Đối với thị trường Trung Quốc lục địa, tuy có vị trí địa lý thuận lợi trong việc vận chuyển hàng hóa, nhưng kim ngạcg chỉ đạt 79,2 triệu USD, tăng 42,89% so với cùng kỳ. Nhưng nếu tính riêng tháng 7/2018, thì xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 3,07% so với tháng 6/2018 và tăng 53,3% so với tháng 7/2017.
Đáng chú ý, xuất khẩu mặt hàng kim loại thường và sản phẩm trong 7 tháng đầu năm 2018, thay vì các thị trường truyền thống thì tăng mạnh xuất sang những thị trường mới nổi, tuy kim ngạch chỉ đạt ở mức thấp nhưng lại tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Trong đó xuất sang thị trường Đài Loan (TQ) tăng đột biến gấp 2,81 lần (tức tăng 181,05%) đạt 61 triệu USD; Hà Lan tăng gấp 2,64 lần (164,03%) đạt 3,6 triệu USD; Philippinnes tăng gấp 2,47 lần (147,59%) đạt 33 triệu USD và Anggola gấp 2,03 lần (103,15%) đạt 64,5 nghìn USD.
Nhìn chung, 7 tháng đầu năm nay kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường đều tăng trưởng chiếm 79%. Ở chiều ngược lại, thị trường với kim ngạch suy giảm chỉ chiếm 21,7%, trong đó xuất sang Thụy Điển và Lào giảm mạnh nhất, giảm lần lượt 82,21%; 43,67% tương ứng với 127,2 nghìn USD và 1,5 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu kim loại thường và sản phẩm 7 tháng năm 2018
Thị trường | T7/2018 (USD) | +/- so vớitháng6/2018 (%)* | 7T/2018 (USD) | +/- so với cùng kỳ 2017 (%)* |
Đức | 990 | 26,55 | 8.013.891 | 32,59 |
Trung Quốc | 12.587.654 | 3,07 | 79.253.946 | 42,89 |
Hồng Kông (TQ) | 978 | 11,51 | 7.415.308 | -54,69 |
Đài Loan | 9.282.274 | -5,70 | 61.060.193 | 181,05 |
Campuchia | 7.424.331 | 14,64 | 43.375.987 | 36,83 |
Ấn Độ | 43.654.086 | -16,03 | 352.966.731 | 38,88 |
Philippines | 8.341.762 | 76,49 | 32.037.099 | 147,59 |
Thái Lan | 4.903.590 | 33,62 | 31.538.692 | -18,59 |
Indonesia | 6.520.786 | 71,58 | 30.726.469 | 13,81 |
Hà Lan | 741 | 100,54 | 3.685.881 | 164,30 |
Canada | 5.470.861 | 33,51 | 28.478.518 | 29,91 |
Australia | 3.069.402 | -20,17 | 21.772.332 | -10,87 |
Hoa Kỳ | 26.780.479 | -12,87 | 203.765.954 | 39,88 |
Malaysia | 3.628.083 | 52,29 | 20.287.121 | 24,55 |
Singapore | 320 | -26,31 | 2.630.487 | -18,11 |
Anh | 2.418.192 | -23,50 | 19.775.128 | 21,15 |
Myanmar | 1.100.181 | -40,54 | 17.327.863 | -3,06 |
Nhật Bản | 20.882.923 | 11,84 | 133.685.839 | 15,85 |
Brazil | 2.502.462 | 169,31 | 11.476.630 | 33,64 |
Hàn Quốc | 16.040.032 | 3,59 | 100.228.601 | 3,41 |
Lào | 348 | 133,97 | 1.592.304 | -43,67 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018, cả nước nhập khẩu 11,98 triệu tấn than đá, trị giá 1,39 tỷ USD, tăng mạnh trên 51% về lượng và tăng 73% về kim ngạch so với 7 tháng đầu năm 2017.
ắt thép nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất có xuất xứ từ Trung Quốc, chiếm 48% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu sắt thép của cả nước, đạt 3,88 triệu tấn, trị giá 2,77 tỷ USD.
Thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018 kim ngạch nhập khẩu thủy sản đã tăng 30,8% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 1,01 tỷ USD.
7 tháng đầu năm, cả nước xuất khẩu 3,93 triệu tấn gạo, tương đương 1,99 tỷ USD, tăng 13,7% về lượng và tăng 30,5% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 17,65 triệu tấn xi măng clinker, thu về 656,3 triệu USD, tăng 63,2% về lượng và tăng 73,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017. Giá xi măng, clinker xuất khẩu đạt trung bình 37,2 USD/tấn, tăng 6,3%.
Sau khi sụt giảm ở tháng 6/2018, thì nay sang tháng 7 xuất khẩu phân bón đã lấy lại đà tăng trưởng, tăng 18,8% về lượng và 29,7% kim ngạch, đạt 77,7 nghìn tấn, 27,5 triệu USD.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 7/2018 đạt 232 triệu USD, giảm mạnh 37,58% so với tháng trước đó nhưng tăng 7,11% so với cùng tháng năm ngoái.
Lo ngại về cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng leo thang, thị trường cao su trong nước cũng cùng chiều với giá thế giới.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018, cả nước xuất khẩu 3,41 triệu tấn sắt thép, thu về 2,53 tỷ USD, tăng 40,4% về lượng và tăng 56,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy chỉ dẫn thứ hai về kim ngạch sau mặt hàng xơ sợi dệt, nhưng xuất khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng của Việt Nam sang thị trường Ai Cập trong 7 tháng đầu năm 2018 tăng đột biến.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự