Những lập luận cho rằng Mỹ ít chịu ảnh hưởng bởi các nền kinh tế mới nổi không nhận được sự đồng tình từ các nhà kinh tế.
Mỹ-Trung tiếp tục cuộc đua chôn dầu trở lại lòng đất
- Cập nhật : 26/09/2015
(Tin Kinh Te)
Trong khi thế giới đang mải mê tăng sản lượng dầu khai thác thì một số cường quốc lại thi nhau đem chôn dầu trở lại.
Dự trữ dầu theo chiến lược SPR
Một trong những chiến lược quan trọng mà Mỹ, một siêu cường đang thực hiện là áp dụng chiến lược SPR (Strategic Petroleum Reserve) xây dựng những bồn chứa dầu khổng lồ ngầm dọc theo bờ biển, tổng lượng dầu dự trữ đã lên tới 700 triệu thùng (barrel).
Với trên 60 hang động đá muối ngầm được sử dụng cho mục đích nói trên đã âm thầm được xây dựng cách đây 40 năm. Không chỉ có Mỹ, nhiều quốc gia khác cũng làm điều này, đầu tư hàng tỷ USD để chôn dầu trở lại vào trong lòng đất.
Nguyên thủy, chiến lược SPR có nguồn gốc từ cuộc khủng hoảng năng lượng đầu thập niên 70 ở thế kỷ trước, khi các hãng xuất khẩu dầu mỏ Ả Rập cắt nguồn cung cho Mỹ lẫn phương Tây nhằm trả đũa việc Mỹ ủng hộ Israel trong cuộc chiến Yom Kippur.
Sau sự kiện trên, Mỹ đã bắt thực hiện chiến lược SPR, lấp đầy các hang động ngầm bằng dầu thô.
Nguồn tin này được một trang web của chính phủ Mỹ tiết lộ: "Việc ra đời các hang động chứa dầu của SPR là để giúp Mỹ khắc phục nguồn cung bị gián đoạn và trở thành công cụ đắc lực cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ".
Đây là một sáng kiến tốn kém nhưng thực dụng, riêng ngân sách 2015, Mỹ dành cho SPR khoảng 200 triệu USD. Cũng nhờ SPR đã giúp Mỹ tránh được nạn thiếu dầu sau chiến tranh vùng Vịnh lần một hoặc sự kiện bão Katrina xảy ra năm 2005.
Theo Bob Corbin, người có thâm niên 22 năm phục vụ trong Lực lượng Bảo vệ bờ biển, hiện đang công tác tại Bộ Năng lượng, phụ trách tài chính cho các dự án nói trên, thì tất cả các kho dự trữ dầu đều được đặt tại các vị trí được giới chuyên môn gọi là mỏ muối.
Lợi thế của mỏ muối là muối không thấm, không pha trộn, không tác động tới dầu, do đó nó được xem là lý tưởng để lưu giữ dầu thô với khối lượng cực lớn. Thậm chí Corbin còn tiết lộ, Mỹ hiện có tới bốn địa điểm đang bảo tồn dầu kiểu này, từ Baton Rouge ở bang Louisiana kéo dài đến tận thành phố Freetown, bang Texas.
Những hang động dầu nói trên hoàn toàn ngầm sâu trong lòng đất, chỉ nhô lên những điểm tiếp cận dạng như lỗ khoan lộ thiên, dẫn dầu xuống độ sâu hàng nghìn mét trong lòng đất.
Bob Corbin còn tiết lộ, việc quản lý hạ tầng các dự án nói trên rất phức tạp và mang tính đặc thù, bởi các mỏ muối không hoàn toàn ổn định. Đôi khi xuất hiện cả những bức tường chắn hoặc những mảng trần lớn có thể sụp xuống bất kỳ lúc nào. Ngoài ra, con người không thể tiếp cận hang động như khoan giếng tự nhiên, do vậy mọi thứ đều phải thực hiện từ xa, phải sử dụng tới các thiết bị chuyên dụng.
Ví dụ, dùng kỹ thuật chụp hình sonar để biết được kích thước ba chiều, biết được khi nào các mỏ này đầy, giống như một chiếc đĩa bay lớn.
Làn sóng đua nhau đưa dầu trở lại lòng đất
Mỹ không phải là quốc gia duy nhất thực hiện chiến lượng dự trữ dầu, trên thế giới còn nhiều nước đang thực hiện chiến lược này.
Nhật Bản hiện có các giếng dầu dự trữ vượt trên con số 500 triệu thùng, phần lớn được lưu chứa trong các bồn chôn trong lòng đất, như tại Shibushi. Sau sự kiện động đất và sóng thần năm 2011, Nhật Bản đã mở rộng kho dự trữ để thỏa mãn nhu cầu trong trường hợp sự cố bất ngờ xảy ra trong tương lai.
Theo ông Martin Young, người đứng đầu Phân ban Chính sách khẩn cấp thuộc Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), một trong những nghĩa vụ quan trọng của các thành viên IEA cam kết có nghĩa vụ dự trữ dầu tương đương mức nhập khẩu 90 ngày.
Nhưng không phải tất cả các nước đều có mỏ muối để lưu giữ dầu nên mỗi nơi có cách làm khác nhau. Ví dụ tại Anh, việc dự trữ dầu là do từng công ty tự làm để phục vụ cho nhu cầu đột xuất.
Một số quốc gia không phải là thành viên IEA, như Ấn Độ và Trung Quốc lại có chiến lược SPR riêng. Người Trung Quốc có kế hoạch đầy tham vọng, trữ dầu tại nhiều nơi trên mặt đất, kết hợp giữa cơ sở nhà nước và các kho dự trữ thương mại.
Trong số này có Zhenhai được xem là quy mô lớn hơn cả, công suất 33 triệu thùng, đi kèm là các nhà máy lọc dầu. Zhang Guobao, người đứng đầu Cục năng lượng Quốc gia Trung Quốc mới đây tuyên bố, Trung Quốc đang thực hiện giai đoạn ba mở rộng khả năng dự trữ dầu lên 204 triệu thùng vào năm 2020.
Năm 2003 Ấn Độ bắt đầu chiến lược SPR, ước đạt 37,4 triệu thùng, đủ cho hai tuần tiêu thụ. Việc thực hiện chiến lược SPR được chuyển từ các Tổng công ty dầu khí Ấn Độ (IndianOil) sang cho Ban Phát triển Công nghiệp (OIDB).
Sau đó OIDB tạo ra công ty chuyên đảm nhận việc này mang tên Công ty TNHH dự trữ dầu Ấn Độ (ISPRL). Một số cơ sở dự trữ dầu lớn của Ấn Độ gồm cơ sở Mangalore, ở bang Karnataka (11 triệu thùng), Padur ở bang Karnataka (18,7 triệu thùng ) và Visakhapatnam, ở bang Andhra Pradesh (1,33 triệu tấn).
Ngày 21/12/2011, Ấn Độ thông báo kế hoạch tăng dự trữ dầu thô đạt khoảng 132 triệu thùng vào năm 2020.
Narongpand Lisapahanya, chuyên gia phân tích dầu khí tại tập đoàn đầu tư CLSA của Hồng Kông cho hay, tới thời điểm hiện tại, chưa có siêu cường nào hoàn thành chiến lược SPR, bởi nó liên quan đén nhiều vấn đề.
Chỉ riêng chi tiêu cho việc phát triển chiến lược SPR như trong kế hoạch của Trung Quốc đề ra để trở thành một siêu cường cũng tốn kém không ít, nhất là khi Trung Quốc hiện không phải thành viên của IEA.
Cũng có người lo ngại, các nước ngoài IEA có thể sử dụng dự trữ dầu để thao túng giá dầu toàn cầu, bán tháo vào thời điểm thuận lợi. Trong khi đó, đối với việc hoàn thành chiến lược SPR là nhằm nhiệm vụ bảo vệ nền kinh tế Mỹ, mục tiêu này đã được khẳng định cách đây 40 năm và ngày nay vẫn là mục đích chính của SPR, nói đúng hơn là bảo vệ nền kinh tế chứ không phải là yếu tố để quản lý giá hay thao túng giá.
Theo ông Sarah Ladislaw, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Các vấn đề Quốc tế ở Washington DC, dư luận hiện vẫn đang tranh luận về mục tiêu sử dụng của nguồn dầu trong SPR.
Người cho rằng đây là giải pháp tích cực, cách đầu tư thông minh, người thì cho là tiêu cực, cáo buộc Mỹ luôn luôn tận dụng tối đa chiến lược SPR, bởi giá trị hiện đã vượt 43,5 tỷ USD, một “nồi tiền khổng lồ ", và thế giới sẽ được lợi gì từ nguồn dầu dự trữ này một khi khủng hoảng dầu diễn ra, chưa kể các quốc gia lớn khác hiện cũng đang chạy đua theo Mỹ tích dầu ?.
Theo Hiệp ước Sinai lần hai (1975 Second Sinai) ký năm 1975, giữa Mỹ và Israel, trong trường hợp khẩn cấp, Mỹ có nghĩa vụ cung cấp dầu dự trữ bán cho Israel với thời gian lên tới 5 năm.
Khắc Nam
Theo Báo Đất Việt