Và nguyên nhân khiến tỷ giá của các đồng tiền này đi xuống nằm ở Trung Quốc...
Việt Nam vẫn là quốc gia nhận được sự tin cậy của các nhà đầu tư Nhật Bản
- Cập nhật : 11/06/2016
Việc Nhật Bản gia tăng sự đầu tư vào Việt Nam sẽ giúp Việt Nam gia tăng sức cạnh tranh trên các lĩnh vực đòi hỏi tay nghề và trình độ cao như cơ khí, chế tạo, điện tử…
Nhật Bản xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu nhóm hàng công nghiệp như máy móc thiết bị, máy vi tính sản phẩm điện tử, sắt thép, linh kiện phụ tùng ô tô…. trong đó nổi bật lên là hàng máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác, mặt hàng này chiếm 28,8% tổng kim ngạch, với 1,2 tỷ USD, nhưng so với cùng kỳ 2015 giảm 27%. Đứng thứ hai về kim ngạch là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, tuy kim ngạch chỉ đạt 768,9 triệu USD, nhưng tăng 5,37%, kế đến là sắt thép, giảm 6,46%, tương ứng với 380,7 triệu USD…
Nhìn chung, 4 tháng đầu năm nay, các doanh nghiệp Nhật Bản xuất khẩu sang Việt Nam phần lớn các mặt hàng đều với tốc độ tăng trưởng dương, số mặt hàng này chiếm 58,9%, trong đó xuất khẩu hàng sữa và sản phẩm tăng mạnh vượt trội, tăng 178,57%, tuy kim ngạch chỉ đạt trên 4 triệu USD, ngoài ra tốc độ xuất khẩu một số mặt hàng với tốc độ tăng trưởng khả như: thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 126,08%, dược phẩm tăng 62,02% và chất thơm mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh tăng 51,87%. Ngược lại, xuất khẩu các mặt hàng với tốc độ tăng trưởng âm chỉ chiếm 41%, trong đó xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện giảm mạnh nhất, giảm 58,7%, mặc dù kim ngạch đạt tới 12 triệu USD.
Thống kê sơ bộ của TCHQ về tình hình nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản 4 tháng 2016
ĐVT: USD
Mặt hàng | 4 tháng 2016 | 4 tháng 2015 | So sánh +/- (%) |
Tổng cộng | 4.373.930.508 | 4.784.701.518 | -8,59 |
máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác | 1.260.282.942 | 1.726.328.992 | -27,00 |
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 768.960.604 | 729.766.159 | 5,37 |
sắt thép các loại | 380.710.046 | 406.999.415 | -6,46 |
linh kiện, phụ tùng ô tô | 221.959.120 | 197.650.274 | 12,30 |
sản phẩm từ chất dẻo | 191.937.981 | 195.926.659 | -2,04 |
vải các loại | 176.406.898 | 165.104.382 | 6,85 |
phế liệu sắt thép | 142.236.857 | 105.401.777 | 34,95 |
sản phẩm từ sắt thép | 132.241.380 | 183.315.185 | -27,86 |
ô tô nguyên chiếc các loại | 105.076.790 | 89.281.732 | 17,69 |
hóa chất | 95.493.112 | 83.663.429 | 14,14 |
chất dẻo nguyên liệu | 93.931.997 | 91.089.800 | 3,12 |
sản phẩm hóa chất | 86.584.440 | 78.975.387 | 9,63 |
kim loại thường khác | 72.544.802 | 80.850.849 | -10,27 |
nguyên phụ liệu dệt, may, da giày | 59.769.677 | 64.572.996 | -7,44 |
phương tiện vận tải khác và phụ tùng | 51.061.712 | 39.043.842 | 30,78 |
giấy các loại | 41.609.695 | 35.566.187 | 16,99 |
sản phẩm từ cao su | 36.329.514 | 33.534.094 | 8,34 |
dây điện và dây cáp điện | 33.262.570 | 32.361.857 | 2,78 |
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh | 31.526.233 | 35.944.222 | -12,29 |
cao su | 29.339.697 | 33.784.501 | -13,16 |
sản phẩm từ kim loại thường khác | 26.819.927 | 25.171.081 | 6,55 |
Hàng thuỷ sản | 19.702.544 | 22.051.966 | -10,65 |
xơ, sợi dệt các loại | 15.368.837 | 13.419.433 | 14,53 |
thuốc trừ sâu và nguyên liệu | 13.690.215 | 13.738.620 | -0,35 |
máy ảnh, máy quay phim và linh kiện | 13.674.801 | 15.201.984 | -10,05 |
sản phẩm từ giấy | 13.204.408 | 11.985.618 | 10,17 |
điện thoại các loại và linh kiện | 12.004.355 | 29.068.963 | -58,70 |
phân bón các loại | 11.721.636 | 13.060.222 | -10,25 |
Sản phẩm khác từ dầu mỏ | 11.241.903 | 9.620.127 | 16,86 |
Dược phẩm | 10.306.881 | 6.361.636 | 62,02 |
Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh | 8.487.027 | 5.588.333 | 51,87 |
nguyên phụ liệu thuốc lá | 8.484.552 | 9.970.725 | -14,91 |
đá quý kim l oại và sản phẩm | 8.342.371 | 11.102.352 | -24,86 |
chế phẩm thực phẩm khác | 4.699.308 | 3.697.716 | 27,09 |
hàng điện gia dụng và linh kiện | 4.129.553 | 3.909.044 | 5,64 |
sữa và sản phẩm | 4.027.513 | 1.445.769 | 178,57 |
gỗ và sản phẩm gỗ | 2.104.675 | 1.600.715 | 31,48 |
quặng và khoáng sản khác | 1.952.948 | 3.362.098 | -41,91 |
thức ăn gia súc và nguyên liệu | 1.703.274 | 753.406 | 126,08 |
Theo nguồn tin từ Baodautu.vn, được biết, cuộc thăm dò do Viện nghiên cứu Mizuho thực hiện mới đây với 1.100 công ty Nhật Bản có vốn trên 10 triệu yên cho thấy, 43,8% số công ty cho rằng, Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là khu vực được dành ưu tiên đầu tư trong tương lai. So với cuộc thăm dò tiến hành vào năm 2015, tỷ lệ chọn ASEAN tăng 2,3% và ASEAN đứng đầu bảng trong 4 năm liên tiếp.
Đặc biệt, mối quan tâm đến Việt Nam được thể hiện rất rõ. Trả lời câu hỏi về kế hoạch tập trung kinh doanh ở nước nào trong ASEAN, có tới 53,5% số công ty được hỏi chọn Việt Nam, tăng 4,9% so với năm ngoái, thể hiện mức tăng rõ rệt về độ quan tâm đối với Việt Nam. Trong khi đó, 59,7% số công ty chọn Thái Lan, giảm 2,2% so với năm ngoái.
Liên quan kế hoạch mở rộng đầu tư trong 12 quốc gia ký kết TPP, có 12,8% số công ty được hỏi chọn Việt Nam; 10,7% chọn Nhật Bản và 4,9% chọn Mỹ.
Một cuộc khảo sát khác do Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) thực hiện đầu năm 2016 cũng cho thấy, hơn 60% doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam có kế hoạch mở rộng kinh doanh tại Việt Nam và tiếp tục coi đây là địa điểm đầu tư quan trọng. Trong đó, 85% doanh nghiệp cho biết, lý do chính để mở rộng kinh doanh là “tăng doanh thu”. Trong ngành công nghiệp phi chế tạo, 65% số nhà đầu tư cho biết, lý do chính là “khả năng tăng trưởng và tiềm năng cao”.
Mặt khác, lợi thế về môi trường đầu tư cũng là một trong những nhân tố hấp dẫn doanh nghiệp Nhật Bản. Việt Nam vẫn duy trì được vị trí thứ 3 (57,7%) trong số 15 quốc gia được cho là “có chi phí nhân công rẻ”. Ngoài ra, tình hình chính trị, xã hội ổn định, quy mô thị trường, khả năng tăng trưởng cũng được đa số doanh nghiệp Nhật Bản đồng tình.
Khảo sát của JETRO cũng chỉ ra rằng, các doanh nghiệp Nhật Bản kỳ vọng rất lớn vào việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), với việc đơn giản hóa các thủ tục hải quan, dỡ bỏ thuế nhập khẩu, thống nhất trong việc vận dụng quy tắc xuất xứ.
Cuộc khảo sát của JETRO được thực hiện với 1.027 doanh nghiệp Nhật Bản, trong đó có 557 doanh nghiệp đưa ra câu trả lời hợp lệ, đạt tỷ lệ 54,2%. Trong số đó, có 364 doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo và 193 doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phi chế tạo - dịch vụ tại Việt Nam.
Khảo sát trên cũng cho thấy, số doanh nghiệp trả lời hoạt động có lãi tại Việt Nam là 58,8%, giảm 3,5%; số doanh nghiệp hoạt động lỗ là 26,2%, tăng 1,3% so năm trước. Nếu xét riêng doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư trong ngành công nghiệp chế biến - chế tạo thì tỷ lệ hoạt động có lãi là 56%...
Các kết quả khảo sát cho thấy, Việt Nam đã, đang và vẫn sẽ là quốc gia nhận được sự ưu ái và tin cậy của các nhà đầu tư Nhật Bản. Việc Nhật Bản gia tăng sự đầu tư vào Việt Nam sẽ giúp Việt Nam gia tăng sức cạnh tranh trên các lĩnh vực đòi hỏi tay nghề và trình độ cao như cơ khí, chế tạo, điện tử…
Nguồn: VITIC/Vinanet