TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính, ngân hàng nêu quan điểm xung quanh Thông tư 14 về xử lý nợ xấu theo hướng mới.
Bức tranh toàn diện về xử lý nợ xấu ngân hàng từ 2010 đến tháng 8/2015
- Cập nhật : 05/09/2015
(Tin kinh te)
Nợ xấu đã phát sinh từ lâu nhưng bắt đầu được quan tâm đặc biệt từ cuối năm 2011. Năm năm, một chặng đường không ngắn cho một mục đích xử lý nợ xấu, dù còn nhiều lời nói vào ra nhưng những thành quả đạt được là không thể phủ nhận.
Theo NCS. Châu Đình Linh
- Nợ xấu không phải mới phát sinh trong những năm gần đây mà thực chất đã tích tụ từ nhiều năm trước, bắt đầu được quan tâm đặc biệt từ cuối năm 2011.
-Giai đoạn, 2008 – 2011, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân là 26,56%, nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu lại ở mức 51%.
-Đến hết 2012, NHNN chỉ tập trung củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng, lành mạnh hóa hoạt động tài chính …để tiến đến xử lý nợ xấu toàn diện.
- 2013, nợ xấu tăng nhanh và thật sự là mối đe dọa đến an ninh hệ thống ngân hàng và ổn định tài chính quốc gia
- 2014, kết quả xử lý nợ xấu đạt được ấn tượng nhờ sự nỗ lực của toàn hệ thống và bán nợ cho VAMC
- 2015, NHNN và toàn hệ thống đang nỗ lực cho mục tiêu đưa nợ xấu về dưới 3% trước cuối năm theo chỉ tiêu Chính phủ giao
Năm năm, một chặng đường, cho một mục đích là xử lý triệt để nợ xấu của các TCTD. Và dẫu có nhiều lời bàn ra, nói vào nhưng cũng không thể không công nhận những thành quả đã đạt được.
Nợ xấutại các NHTM Việt Nam không phải mới phát sinh trong những năm gần đây, mà thực chất đã tích tụ từ nhiều năm trước. Khi tình hình kinh tế vĩ mô xấu đi, hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ, thì cũng là lúc nợ xấu nảy nở như nấm sau mưa. Dựa vào số liệu tổng hợp, thìnợ xấu có xu hướng gia tăng từ năm 2007 và được quan tâm đặc biệt từ cuối năm 2011.
Năm 2010, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM chưa tính nợ của Vinashin thì chỉ 2,52%, tương đương khoảng 58.000 tỉ đồng. Con số khá nhỏ và trong tầm kiểm soát, mặc dù gia tăng khá nhiều so với năm 2009 là 2,05%. Trong thời gian này, nợ xấu vẫn chưa được đánh giá là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng gây ra bất ổn tài chính quốc gia. Do đó, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng năm 2010 tiếp tục duy trì ở mức tăng 27,65%, tổng phương tiện thanh toán tăng 23%...Và các NHTM phải tự xử lý nợ xấu thông qua trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo quy định hoặc phát mãi tài sản bảo đảm hoặctái cơ cấulại nợ vay.
Năm 2011, nợ xấu bắt đầu gia tăng về giá trị lên 85.000 tỉ đồng, chiếm 3,3% tổng dư nợ. Đồng thời, các NHTM bắt đầu gặp khá nhiều trục trặc về thanh khoản và kết quả hoạt động kinh doanh chững lại. Đây là hậu quả tất yếu của: (i) chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và có phần thắt chặt; (ii) nợ xấu tích tụ từ nhiều năm trước được bùng phát; (iii) và tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trở nên phổ biến.
Điều này ảnh hưởng rất lớn tới hệ thống ngân hàng thương mại ở 3 phương diện: Một là, gia tăng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng; hai là, giảm tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu; ba là, rủi ro thanh khoản, kỳ hạn, rủi ro đổ vỡ hệ thống ngân hàng. Và các giải pháp được sử dụng để xử lý nợ xấu năm 2011 phân tán ở từng ngân hàng thông qua siết chặt thẩm định khách hàng vay vốn; hay đảo nợ, giãn/ hoãn/ giảm nợ; và tuân thủ quy định, điều kiện cho vay với doanh nghiệp nhà nước.
Năm 2012, kết quả tất yếu là bùng nổ tỷ lệ nợ xấu, đồng thời xuất hiện “hỏa mù” về số liệu nợ xấu. Trong giai đoạn, 2008 – 2011, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân là 26,56%, nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu lại ở mức 51%. Do đó, nợ xấu được quan tâm không chỉ ở cấp độ NHTM, hay NHNN mà còn lên ở nghị trường Quốc hội lẫn Chính phủ. Lúc này đây, số liệu nợ xấu và tình trạng nợ xấu – xấu đến đâu, không có gì là rõ ràng.
Chẳng hạn, theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, đến 31/5/2012, nợ xấu của hệ thống là 117.723 tỷ đồng, chiếm 4,47%. Còn số liệu của Cơ quan giám sát ngân hàng thì tỷ lệ nợ xấu có khi lên đến 8,6%. Và bất ngờ hơn cả là số liệu của Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu Việt Nam là 13% trên tổng dư nợ. Chính vì vậy, ngày 03/01/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ – CP, về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012.
Trong Nghị quyết trên, một vấn đề lớn được đề cấp là hoạt động “Tái cơ cấuhệ thống tài chính, ngân hàng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại” với việc kiểm soát tỷ lệ nợ xấu và bảo đảm trích lập dự phòng rủi ro ở các ngân hàng. Và từ đó, đề án số “cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” theo Quyết định 254/QĐ – TTg ra đời.
Trên thực tế, NHNN đã rất quyết liệt triển khai nhiệm vụ theo tinh thần đề án 254, bằng cách phân loại hệ thống NHTM thành ba nhóm: Nhóm 1, gồm các NHTM có tình hình tài chính lành mạnh, có năng lực quy mô đủ lớn để phát triển thành các ngân hàng trụ cột của hệ thống; Nhóm 2, gồm các NHTM có tài chính lành mạnh, nhưng quy mô nhỏ; Nhóm 3, gồm các NHTM có tình hình tài chính khó khăn buộc phải thực hiện tái cơ cấu.Đến hết năm 2012, NHNN chỉ tập trung củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng, lành mạnh hóa hoạt động tài chính, tái cơ cấu tổ chức, tăng cường quản trị hệ thống ngân hàng…để tiến đến xử lý nợ xấu toàn diện.
Năm 2013,có thời điểmnợ xấu tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam tăng mạnh tới 23,73% so với năm 2012. Lúc này, nợ xấu thật sự là mối đe dọa đến an ninh hệ thống ngân hàng và ổn định tài chính quốc gia. Nợ xấu đã ngày càng xấu lẫn vượt tầm kiểm soát của từng ngân hàng. Do đó, trong năm 2013, Chính phủ và NHNN phải tất bật thông qua nhiều giải pháp, sáng kiến nhằm xử lý triệt để nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Và nhiệm vụ của NHNN trong đề án 254 được thực thi sang giai đoạn hai, là lành mạnh hóa tài chính hệ thống ngân hàng với việc tăng cường xây dựng các quy định về an toàn vốn, xử lý nợ xấu hệ thống qua việc thành lậpVAMCvà nâng cao quản trị rủi ro, hướng đến hoàn thiện chuẩn mực Basel II. Lần lượt các Quyết định và Thông tư được ra đời:
-Ngày 21/01/2013, NHNN ban hành Thông tư 02/2013/TT – NHNN, quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư này quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng hướng theo chuẩn mực Basel II mà nhiều nước trên thế giới đang áp dụng.
-Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/05/2013, về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
-Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 31/5/2013theo Quyết định 843/2013/QĐ-TTg, với nguyên tắc xử lý nợ xấu phải khẩn trương, quyết liệt, đồng bộ, bằng nhiều biện pháp, và đặt trong tổng thể chương trình tái cơ cấu nền kinh tế.
-Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 09/09/2013, quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý Tài sản của các TCTD (VAMC).
Năm 2014, một năm tích cực và chủ động xử lý nợ xấu. Theo báo cáo của các TCTD, đến cuối tháng 7/2014, tổng nợ xấu nội bảng là 162,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,11% tổng dư nợ. Và nợ xấu của hệ thống ngân hàng có xu hướng tăng nhanh trong các tháng đầu năm 2014 do tình hình kinh tế vĩ mô chưa được có nhiều cải thiện, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn khó khăn, TCTD áp dụng chuẩn mực mới về phân loại nợ chặt chẽ hơn để phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng và thực trạng nợ xấu, từ đó thúc đẩy xử lý nợ xấu.
Trong thời gian này, NHNN đã thực hiện các biện pháp xử lý nợ xấu như sau:
-NHNN tiếp tục cho phép các TCTD thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợnhằm góp phần giảm bớt gánh nặng tài chính và hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho khách hàng vay, tuy nhiên quy định chặt chẽ hơn để tránh các TCTD lợi dụng việc cơ cấu nợ để che giấu nợ xấu.
-Ngày 18/3/2014, NHNN đã ban hành Thông tư số 09/2014/TT-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, cho phép các TCTD tiếp tục được thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ kể từ ngày 20/3/2014 đến hết ngày 1/4/2015 nhưng mỗi khoản nợ chỉ được cơ cấu lại một lần.
-Các TCTD tiếp tục tích cực chủ động xử lý nợ xấu, trong 7 tháng đầu năm các TCTD đã xử lý được hơn 40,8 nghìn tỷ đồng nợ xấuthông qua: (1) Khách hàng trả nợ: 14,3 nghìn tỷ đồng; (2) Bán, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ: 1,56 nghìn tỷ đồng; (3) Bán cho các tổ chức, cá nhân: 14,49 nghìn tỷ đồng; (4) Xử lý bằng dự phòng rủi ro: 8,3 nghìn tỷ đồng...
-Và VAMC vẫn là công cụ chiến lược trong việc giảm dần nợ xấu của các TCTD. Thực tế cho thấy, tỷ lệ nợ xấu giảm dần của các TCTD có mối quan hệ chặt chẽ với việc mua nợ xấu của VAMC trong giai đoạn 6 tháng cuối năm 2014 và các tháng đầu năm 2015. VAMC tiến hành mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) đối với những khoản nợ của các TCTD đáp ứng đủ điều kiện quy định. Lũy kế từ tháng 10/2013 đến 31/12/2014, VAMC đã thực hiện mua 133.555 tỷ đồng dư nợ gốc với giá mua 108.652 tỷ đồng của 39 TCTD.
Biểu đồ: Kết quả mua nợ xấu của các TCTD bằng TPĐB của VAMC
Tháng 8/2015, năm cuối cùng của giai đoạn 2011 – 2015 thực hiện Đề án cơ cấu lại các TCTD và năm bản lề thực hiện Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD. Do đó, Chính phủ và NHNN đang và sẽ thực hiện quyết liệt để xử lý triệt để nợ xấu – một trong những tác nhân lớn gây bất ổn kinh tế vĩ mô Việt Nam.
-Để tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp xử lý nợ xấu nêu tại Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” ban hành kèm theo Quyết định 843 và phấn đấu đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 3% đến cuối năm 2015như đã nêu tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015, NHNN đã ban hành Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 27/01/2015 về việc tăng cường xử lý nợ xấu của TCTD. Với Chỉ thị này, NHNN yêu cầu: VAMC phải có kế hoạch mua 70.000 – 100.000 tỷ đồng nợ xấu trong năm nay; các TCTD phải xử lý được tối thiểu 60% số nợ xấu cần xử lý trong năm 2015 trước 30/6; thực hiện bán nợ cho VAMC phải đạt tối thiểu 75% trong 6 tháng đầu năm; và các TCTD phải tập trung nguồn lực xử lý nợ xấu.
-Gần 2 năm thành lập nhưng VAMC vẫn khá loay hoay trong hoạt động xử lý nợ xấu. Và một trong những nguyên nhân mà theo các chuyên gia nhận định là mức vốn điều lệ khá nhỏ bé so với khoảng nợ xấu khổng lồ. Bên cạnh đó, cơ chế mua bán nợ vẫn còn phụ thuộc ở biện pháp hành chính, chưa theo hướng thị trường. Chính vì vậy, ngày 31/3/2015, Nghị định 34/2015/NĐ-CP ra đời về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013
Bảng 2.3: So sánh giữa Nghị định 53 và Nghị định 34
-Đến tháng 6/2015, thống kê từ báo cáo tài chính của 12 ngân hàng thương mại cổ phần thì lợi nhuận bị bào mòn đến 46% vì chi phí dự phòng. Chi phí dự phòng tăng lên nhưng theo đúng lộ trình chỉ 20%/năm khi bán nợ xấu đổi lấy trái phiếu đặc biệt của VAMC. Chính vì vậy, lợi nhuận ngân hàng có bào mòn mạnh nhưng sẽ bớt sốc hơn với chính sách mua bán nợ của VAMC. Và tính cho đến tháng 7/2015, VAMC cũng đã tiếp nhận thêm 64.000 tỷ đồng từ các TCTD, phê duyệt được 59.000 tỷ đồng với giá gốc và giá mua là 54.000 tỷ đồng. Theo đó, VAMC đã phát hành được 51.300 tỷ đồng TPĐB. Về bán nợ, sau 7 tháng đầu năm triển khai, VAMC xử lý bán tài sản bảo đảm, bán nợ và thu hồi được 6.513 tỷ đồng.
-NHNN luôn có những bước đi vững chắc trong xử lý dứt điểm nợ xấu của các TCTD. Cụ thể, ngày 28/8/2015, NHNN ban hành Thông tư số 14/2015/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của TT 19/2013/TT-NHNN về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty VAMC. Thông tư này cụ thể hóa những thay đổi trong Nghị định 34/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/3/2015. Và chính thức quy định việc VAMC mua lại nợ xấu theo giá thị trường bằng phát hành trái phiếu trực tiếp cho tổ chức tín dụng bán nợ xấu, bên cạnh trái phiếu đặc biệt với cơ chế đã có. Cơ chế mới gắn kèm với nhiều lợi ích như sau: Trái phiếu VAMC phát hành dùng để thanh toán cho tổ chức tín dụng bán lại nợ xấu; các TCTD sở hữu trái phiếu mới này thì không phải trích lập dự phòng rủi ro như TPĐB; TCTD sở hữu trái phiếu như một tài sản có tính thanh khoản cao, bởi có thể chuyển nhượng giữa TCTD với NHNN, và giữa các TCTD với nhau.
Bảng: So sánh giữa trái phiếu đặc biệt và trái phiếu mới
Năm năm, một chặng đường, cho một mục đích là xử lý triệt để nợ xấu của các TCTD.Và dẫu có nhiều lời bàn ra, nói vào nhưng cũng không thể không công nhận những thành quả mà Chính phủ, NHNN và VAMC đã nỗ lực đạt được trong hoạt động xử lý nợ xấu.
NCS. Châu Đình Linh
Theo Trí thức trẻ/CafeF