Nhóm thủ tục về thuế có chi phí trung bình chỉ hơn 73.000 đồng, trong khi đó lĩnh vực xây dựng lên tới hơn 64 triệu đồng.
Lưới điện mini kéo tăng trưởng GDP
- Cập nhật : 31/07/2018
Lưới điện Mini là một dải pin năng lượng mặt trời và được kết nối với các ngôi nhà, đảm bảo cung cấp điện 24/7, tách biệt lưới điện quốc gia.
Giải pháp cho hơn 1,1 tỷ người chưa có điện
Là một ngôi làng với mảng rừng xanh bát ngát ở bang Jharkhand, phía đông Ấn Độ, Narotoli là nhà của những người trung thành với đạo Sarna, một tôn giáo tôn thờ thiên nhiên. Vì thế không có gì khó hiểu khi ngôi làng này từ lâu không có điện. Điều đó khiến cho Narotoli càng cách ly với thế giới văn minh bên ngoài hơn nhiều nơi khác ở Ấn Độ.
Cách đây vài tháng, Narotoli đã trở thành một trong những ngôi làng cuối cùng ở Ấn Độ hưởng lợi từ một chính sách kéo điện đến tất cả mọi ngôi làng trên khắp cả nước của Thủ tướng Narenda Modi. Nhưng đường dây điện cũng rất “không ổn định”, theo một nhà điều hành doanh nghiệp Ấn Độ.
Tuy nhiên, 2 năm trước khi lưới điện kéo đến ngôi làng Narotoli, Mlinda, một doanh nghiệp xã hội, đã lắp đặt một “lưới điện mini”, có thể hiểu là một dải pin được sạc bởi năng lượng mặt trời và được kết nối với các ngôi nhà, đảm bảo cung cấp điện 24/7, hoàn toàn độc lập với lưới điện quốc gia. Các lưới điện mini này khác với các tấm pin năng lượng mặt trời trên mái và các loại pin đang ngày càng được sử dụng tại các nước nghèo để cấp điện LED và để sạc điện thoại di động.
Lưới điện mini 22,5kW của Narotoli cung cấp điện cho hàng chục hộ gia đình được kết nối bằng các cây cột và dây điện, cũng như cấp điện để chạy máy ép hạt làm ra dầu ăn, hay chạy hệ thống tưới tiêu trong mùa khô và cấp điện cho một trang trại gia súc gia cầm – tất cả những điều này đều góp phần vào tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Chi phí để sản xuất ra điện là không nhỏ. Bên cạnh đó là mối lo ngại rằng nhu cầu về điện có thể không đủ để trang trải cho chi phí lắp đặt. Nhưng Mlinda và các doanh nghiệp lắp đặt lưới điện mini khác xem đó không chỉ là một cách để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện năng hiện tại: chúng còn là một cách để tạo chất xúc tác cho sự phát triển. Các đơn vị lắp đặt lưới điện mini tư vấn cho dân làng về hệ thống tưới tiêu, canh tác, trồng trọt và cách thức tiếp thị để hỗ trợ họ phát triển các cơ sở kinh doanh sản xuất mà cần nguồn điện ổn định, giúp họ trang trải được chi phí lắp đặt.
Vijay Bhaskar thuộc Mlinda cho biết một sai lầm lớn trong quá trình phát triển là cho rằng một khi người dân được kết nối với lưới điện, các hoạt động kinh doanh sản xuất sẽ tự động phát triển. Trên thực tế, người dân phải được hướng dẫn cách tận dụng hiệu quả nguồn điện, ông cho biết. “Mang điện đến người dân là phần dễ. Phần khó là tìm ra các phương pháp tận dụng tốt nhất nguồn điện”, ông nói.
Tinh thần này đang lan khắp các vùng nông thôn Nam Á và châu Phi, nơi lưới điện mini đang ngày càng được xem là một trong những giải pháp hứa hẹn nhất có thể giúp kết nối 1,1 tỉ người chưa có điện trên thế giới. World Bank cho biết những người sử dụng lưới điện mini có thể cần đến tài chính vi mô và đào tạo hướng nghiệp để tận dụng tốt nhất nguồn điện có được.
Theo một chuyên gia người Anh, “các đơn vị vận hành lưới điện mini không phải là người đi bán từng kilowatt điện, mà họ chính là những người kích thích sự phát triển của khu vực nông thôn”. Jaideep Mukherjee, ông chủ của Smart Power India, một tổ chức phi chính phủ được hỗ trợ bởi Rockefeller Foundation, cho rằng công việc của họ là phải “cho người dân thấy được lợi ích, đào tạo họ và sau đó truyền bá đi khắp nơi”.
Lợi ích từ lưới điện mini
Dẫn chứng tốt nhất là câu chuyện về Havil Bilung, một nông dân ở Narotoli. Ông cho biết nhờ sự giúp đỡ từ Mlinda, việc tiếp cận điện đã cho phép ông sử dụng ống bơm nước để trồng thêm bí ngô và đậu bắp trong những tháng trước đợt gió mùa, giúp ông tăng thu nhập. Nhiều mùa vụ hơn đã giảm số thanh niên tìm kiếm việc làm vãng lai ở các thành phố trong suốt mùa khô. Phụ nữ thì làm dầu ăn từ hạt mù tạc, rồi đem bán ở Kolkata. Một nghiên cứu độc lập cho thấy GDP bình quân đầu người ở 8 ngôi làng có lưới điện mini đã tăng 10,6% tính trung bình trong 13 tháng đầu tiên, so với chỉ 4,6% của nhóm làng tương tự mà không có lưới điện.
Lưới điện mini đang được lắp đặt ở con số chỉ khoảng 100 mỗi năm, từ Myanmar đến Mozambique. Nhưng Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết hàng trăm ngàn lưới điện mini có thể kết nối 440 triệu người đến năm 2030, nếu có các chính sách đúng đắn và khoảng 300 tỉ USD vốn đầu tư.
Các nước châu Phi đã từng gần như chỉ tập trung vào việc mở rộng lưới điện quốc gia. Giờ một số quốc gia, trong đó có Nigeria và Togo, đã bắt đầu ưu tiên cho lưới điện mini. Nigeria, vốn là quốc gia đứng thứ 2 về số dân chưa có điện sau Ấn Độ, gần đây đã nhận được World Bank tài trợ cho chương trình 330 triệu USD nhằm khuyến khích các công ty tư nhân xây dựng 850 lưới điện mini, cấp điện cho 300.000 hộ gia đình và 30.000 cơ sở kinh doanh nhỏ. Các thị trường đầy hứa hẹn khác cho lưới điện mini là Kenya và Tanzania.
Kinh nghiệm của Engie, một trong những công ty năng lượng lớn của châu Âu đang thử nghiệm lưới điện mini ở châu Âu, có thể minh họa cho tác động đáng kể của lưới điện mini. Dự án lưới điện mini của Engie có tên PowerCorner triển khai 8 lưới điện mini ở Tanzania cung cấp điện cho 3.500 khách hàng. Juan Garcia Montes, đứng đầu PowerCorner, cho biết các khách hàng của ông không sử dụng điện để dựng lên các cơ sở kinh doanh mới mà để tăng năng lực cạnh tranh của các cơ sở kinh doanh sản xuất hiện có như cơ sở làm mộc và nhà máy xay xát.
Engie cung cấp các khoản vay “mềm” đối với các khoản đầu tư máy móc thiết bị tiết kiệm năng lượng và dạy người dân cách sử dụng chúng hiệu quả. Việc khoảng 20% khách hàng tiêu thụ tới 80% lượng điện cho thấy tầm quan trọng của nhóm khách hàng tiêu thụ điện chủ chốt.
Có thể mất 7 năm hoặc hơn thế để lấy lại số vốn đã đầu tư vào một lưới điện mini, vì thế các nhà phát triển cần được sự đảm bảo lâu dài về các chính sách điện khí hóa. Họ cần biết rõ thông tin về các quy định cấp giấy phép, thuế quan, các khoản trợ cấp cũng như về quy hoạch, bởi tất cả những điều này có thể là “bãi mìn” chính trị.
Thứ nhất, các quy định cấp phép chuẩn mực là phải có. Nếu các dự án lưới điện mini cần phải có sự phê duyệt về đánh giá tác động môi trường hoặc an toàn và sức khỏe thì chúng không khả thi. Thứ hai, các nhà phát triển cần được minh bạch về việc họ được tính giá điện bao nhiêu đối với khách hàng. Thứ ba, các nhà vận hành lưới điện mini cũng cần được thông báo trước về các kế hoạch mở rộng lưới điện để giảm rủi ro lưới điện mà họ lắp đặt lại bỏ không khi lưới điện quốc gia kéo về tới làng.
Họ cũng cần rõ ràng về các quy chuẩn kỹ thuật để làm cho lưới điện mini kết nối được vào lưới điện quốc gia nếu một ngày nào đó khả năng này trở nên khả thi.
Những vấn đề này có thể khó giải quyết rốt ráo, vì các đơn vị cấp điện nhà nước thường xem các lưới điện mini là một mối đe dọa đối với tính độc quyền và các khoản trợ cấp của họ. Nhưng sẽ rất hữu ích nếu chính phủ có một quy hoạch chung cả nước như quy hoạch ở Nigeria, theo đó vạch rõ các vùng địa phương nào khả thi hoặc không khả thi trong việc mở rộng lưới điện quốc gia.
Willian Brent, thuộc tổ chức phi chính phủ Power for All, cho biết một số nhà phát triển lớn trong lĩnh vực lưới điện mini như Rift Valley Energy ở Tanzania được kết nối bằng đường dây điện vào lưới điện quốc gia. Ông nghĩ mô hình này có thể ngày càng trở nên phổ biến hơn.
Hầu hết các lưới điện mini đều “xanh”, không giống như dầu diesel, dầu hỏa và điện chạy bằng than đá và gas. Đó là một tương lai mà ai cũng hân hoan chào đón, bởi phần khí thải mà những địa phương như Narotoli “góp” vào tình trạng nóng lên của trái đất là cực thấp.
Đàm Hoa
Theo nhipcaudautu.vn