Ông Phạm Thanh Hà, Phó tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) nhận định, áp lực tỷ giá trong vòng 4 tháng từ nay tới cuối năm cũng sẽ như diễn biến các năm và có thể không đáng lo ngại sau việc điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Phép thử thực sự với ổn định tỷ giá USD/VND
- Cập nhật : 15/08/2015
(Tin phap luat)
Chiếc “dây xích” biên độ tỷ giá vừa được Ngân hàng Nhà nước nới thêm đang căng như dây đàn...
Sự “đa mục tiêu” vừa muốn giữ tỷ giá, vừa muốn lãi suất thấp, vừa muốn tăng trưởng, thậm chí Bộ Tài chính còn đề xuất vay quỹ dự trữ ngoại hối để đầu tư công, làm cho Ngân hàng Nhà nước “vừa bế em, vừa xay thóc” trong nhiều năm liền.
Chiếc “dây xích” biên độ tỷ giá vừa được Ngân hàng Nhà nước nới thêm +/- 1% ngày 12/8 đang căng như dây đàn.
Và nay, Ngân hàng Nhà nước đã làm như thế.
Ông Cấn Văn Lực, chuyên gia ngân hàng hiện công tác tại BIDV phân tích, điều chỉnh tỷ giá tăng 1%, thị trường hiểu là tỷ giá chỉ đi lên, còn nới biên độ giao dịch từ +/- 1% lên +/-2%, người ta sẽ hiểu tiền VND có lên giá hoặc xuống giá trong biên độ +/- 2% đó. Công cụ này cũng đã được các nước sử dụng trong thời gian vừa qua, kể cả Trung Quốc.
Nhưng với người bán, kẻ mua ngoại tệ ở Việt Nam, rất có thể họ lại hiểu thêm rằng, nếu phải mua với giá 22.106 VND/USD, tức là tỷ giá đã tăng thêm 1% so với trước ngày 12/8, nói khác đi, VND bị phá giá thêm 1%.
Thực tế chiều 13/8 đã chứng minh gần như vậy khi Vietcombank niêm yết giá bán ra là 22.105 VND, còn thị trường tự do đã chạm mốc 22 nghìn đồng với mỗi USD.
Câu hỏi đặt ra, Ngân hàng Nhà nước sẽ ứng xử ra sao trước “yếu tố Nhân dân tệ” này khi mà chúng là nhân tố làm trầm trọng thêm sự tăng giá của đồng USD, nhất là với một giả định “ông hàng xóm” chưa muốn dừng trò chơi đầy chủ ý này?
Nhóm thứ nhất gồm các nhu cầu thanh toán ngoại tệ thực tế và bắt buộc như hoạt động xuất nhập khẩu, kiều hối, FDI...; Nhóm cung cầu thứ hai đến từ yếu tố tâm lý do quá trình tích tụ “đô la hóa” của nền kinh tế trong hàng thập kỷ qua.
Nhưng điều đáng quan tâm là nhóm cung cầu thứ hai, đó là tâm lý của người dân, doanh nghiệp cũng như phản ứng phòng vệ của họ trước trạng thái mở trong giai đoạn trước, khi tỷ giá được cam kết ổn định, lãi suất VND hấp dẫn; kéo theo xu hướng chuyển đổi USD sang VND để hưởng chênh lệch.
Điều tệ hại là diễn biễn cung cầu của nhóm thứ hai này không dễ đo lường, đong đếm, nhất là khi nền kinh tế vẫn bị “đô la hóa” trầm trọng.
Cần thấy, tổng quy mô huy động cho vay ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng ước khoảng vài chục tỷ USD. Giả định, số ngoại tệ này vì một lý do nào đó bị dịch chuyển bởi những hành vi nhạy cảm như mua để trả nợ trước hạn, sẽ rất khó lường đón mức độ áp lực khủng khiếp của chúng lên hoạt động điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.
Nhưng với Việt Nam thì ngược lại. Bởi Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ không thể độc lập mà bị đan xen, lồng ghép với nhiều chính sách khác.
Sự “đa mục tiêu” vừa muốn giữ tỷ giá, vừa muốn lãi suất thấp, vừa muốn tăng trưởng, thậm chí Bộ Tài chính còn đề xuất vay quỹ dự trữ ngoại hối để đầu tư công, làm cho Ngân hàng Nhà nước “vừa bế em, vừa xay thóc” trong nhiều năm liền.
Ông Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển kinh doanh (BDI) từng nói rằng, “tỷ giá thực” của Việt Nam phải cộng thêm khoảng 4% - 5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng mà Ngân hàng Nhà nước vẫn công bố.
Nhưng vị trưởng phòng kinh doanh ngoại tệ của một ngân hàng lớn nói trên cho rằng, trong quá trình kinh doanh ngoại tệ hàng ngày trên thị trường, ngân hàng của ông không bao giờ quan tâm đến yếu tố này, đơn giản vì VND không phải là đồng tiền tự do chuyển đổi, do đó, “tỷ giá thực” không nhiều ý nghĩa trong đời sống hàng ngày.
Nếu ai đó ở vào thế của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm này, đối mặt với đòi hỏi “tỷ giá thực” phải là 24.000 VND/USD hoặc hơn, khi mà điều hành tỷ giá phải xét các yếu tố giảm lãi suất hỗ trợ tăng trưởng, giảm lạm phát, trả nợ quốc tế, sẽ hiểu vì sao chưa bao giờ cơ quan này coi “tỷ giá thực” là một mục tiêu điều hành.