Các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt tại Mỹ đã chiếm tới hơn 25% tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài trong quý III/2015.

Sau thông báo ngày 16/11 vừa qua, Marriott trở thành chuỗi khách sạn lớn nhất thế giới với hơn 1 triệu phòng, nhiều hơn khoảng 50% so với đối thu nặng kí nhất là Hilton.
Cuối cùng thì sau nhiều tháng đồn đoán, thương vụ chuỗi khách sạn của Mỹ là Marriott bỏ ra 12,2 tỷ USD mua lại đối thủ Starwood vốn sở hữu những thương hiệu nổi tiếng như Westin và Sheraton đã diễn ra. Hồi tháng 4, tăng trưởng của Starwood suy giảm trong khi các chuỗi khách sạn khác vẫn hoạt động tốt. Đây chính là nguyên nhân lớn nhất khiến họ bắt đầu tìm kiếm “phương án thay thế chiến lược và tài chính”.
Sau thông báo ngày 16/11 vừa qua, Marriott trở thành chuỗi khách sạnlớn nhất thế giới với hơn 1 triệu phòng, nhiều hơn khoảng 50% so với đối thu nặng kí nhất là Hilton.
Thương vụ này diễn ra trong thời kỳ hoàng kim của ngành khách sạn. 8 năm trước, công ty vốn cổ phần tư nhân Blackstone mua Hilton với giá 26 tỷ USD. Giá trị của Hilton đã giảm mạnh trong suốt thời kỳ suy thoái kinh tế, nhưng sự phục hồi của ngành công nghiệp khách sạn khiến thương vụ trở thành một trong những vụ mua lại lời nhất trong lịch sử của Blackstone.
Ở Mỹ, doanh thu trên mỗi phòng có sẵn (RevPAR, doanh thu chia theo số phòng có sẵn trong một khoảng thời gian cho trước), đã liên tục trong vòng 5 năm trở lại đây. Công ty kiểm toán PwC kỳ vọng năm nay tỷ lệ sử dụng phòng sẽ đạt mức cao nhất kể từ năm 1981. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra không phải là liệu suy giảm có diễn ra (bởi chắc chắn nó sẽ xảy đến), mà là các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn như Marriott có thể kéo dài những ngày thanh bình này bao lâu.
Cú bùng nổ trong ngành kinh doanh khách sạn ở thời điểm hiện tại xuất hiện một phần do chu kỳ và cũng một phần do công tác quản lý tốt. Điểm mấu chốt là các công ty kinh doanh khách sạn sở hữu ít hơn các tòa nhà khách sạn hơn họ đã từng.
Trong mô hình “xem nhẹ tài sản” này, doanh nghiệp kiếm tiền từ việc quản lý và nhượng quyền khách sạn. Marriott sở hữu hoặc thuê chỉ 2% số phòng mà nó đang điều hành. Chủ khách sạn không thu lời từ sự tăng giá bất động sản, nhưng ngược lại cũng sẽ không bị ảnh hưởng nhiều khi giá lao dốc.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã chứng minh “tính nhân đạo” của mô hình này: các công ty khách sạn cũng bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng, nhưng các nhà đầu tư tài sản lại là người chịu hầu hết nỗi đau. Kể từ đó, các công ty khách sạn hưởng lợi từ sự không cân bằng đơn giản giữa cung và cầu, đặc biệt là ở Mỹ. Thị trường du lịch đã nhộn nhịp trở lại nhưng nguồn cung phòng khách sạn mới chưa thể bắt kịp được.
Tuy nhiên, liệu tình trạng này kéo dài được bao lâu? Các khách sạn đang đối mặt với làn sóng thay đổi mạnh mẽ do các công ty công nghệ gây nên. Airbnb, ứng dụng chia sẻ phòng, cung cấp số phòng nhiều hơn cả của Marriott và Starwood cộng lại. Các đại lý du lịch trực tuyến mạnh tay cắt giảm chi phí thuê phòng trong các tour du lịch. Đồng thời các trang so sánh giá khiến các doanh nghiệp khó lòng tăng giá phòng. Ngoài ra nguồn cung đang tăng lên cũng khiến việc tăng giá càng khó hơn.
Steven Kent, chuyên gia của Goldman Sachs, dự báo nguồn cung phòng mới trong 2 năm tới sẽ vượt qua tổng số của 5 năm trước. Thực tế, tăng trưởng trong tỷ lệ sử dụng phòng và chỉ số RevPAR đều đang bắt đầu chững lại.
Dẫu vậy, ông chủ của Marriott, Arne Sorensn, vẫn tin tưởng và lạc quan với thương vụ vừa qua. Ông lập luận: “Cho dù đây có là một thị trường giá lên mạnh mẽ hay thị trường giá giảm, đâu đó vẫn có giá trị chúng tôi có thể tạo ra từ việc ráp 2 ông lớn này lại với nhau.”
Marriott đang mua Starwood với giá khá rẻ, và sẽ tiếp tục với kế hoạch thu về 2 tỷ USD (trước thuế) từ việc bán tài sản trong vòng 2 năm tới. Ông Sorenson cho biết các khách sạn phong cách của Starwood sẽ giúp Marriott thu hút lượng lớn khách du lịch. Thương vụ này cũng giúp Marriott chống đỡ với những đối thủ mới đang hoạt động tích cực trên Internet, bằng cách trải đều chi phí về công nghệ (từ các ứng dụng dành cho khách hàng đến phần mềm dự báo nhu cầu phòng ở) trên 1,1 triệu phòng.
Các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt tại Mỹ đã chiếm tới hơn 25% tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài trong quý III/2015.
Tỷ lệ thành công cao cùng sự mở cửa ngày càng lớn của thị trường đã khiến nhượng quyền thương hiệu trở thành cách khởi nghiệp được nhiều người trẻ tại Việt Nam quan tâm.
Dù doanh số ngày lễ độc thân của Alibaba khá khả quan nhưng cổ phiếu của hãng này lại không được tốt như vậy.
Khi mua sắm online đang dần trở thành một thói quen tiêu dùng của người Việt, các công ty thương mại điện tử buộc phải tìm những phương hướng phát triển riêng, nhằm nhanh chóng định hình chỗ đứng trong tâm trí người tiêu dùng. Và từ đó các ông lớn trong thương mại điện tử phải tìm kiêm ý tưởng cho mô hình của mình.
Viveck Ramaswamy là niềm mơ ước của bất kỳ ông bố bà mẹ nào. Anh là con cả trong một gia đình người nhập cư từ Nam Ấn. Bố anh làm việc tại General Electric, và mẹ anh là bác sĩ tâm thần lão khoa tại Merk and Schering – Plough.
Một đặc điểm chung của các công ty chúng tôi vừa đề cập là "lười" tăng vốn - trái ngược hẳn với xu hướng chung của thị trường hiện nay.
Sonny Vũ sẽ làm việc cho Fossil, dưới vai trò là Chủ tịch kiêm Giám đốc công nghệ của các thiết bị kết nối, dự kiến giao dịch này sẽ hoàn thành trước khi kết thúc năm tài khoá 2015.
Phía sau ánh sáng thành công hào nhoáng của tập đoàn hàng hiệu lớn, có không ít chuyện thú vị về cuộc đời kinh doanh của ông Johnathan Hạnh Nguyễn cũng như các thành viên trong gia đình ông.
Nhờ quy mô nhỏ, doanh nghiệp có thể trả lời email khách hàng chỉ sau vài phút, hàng mẫu giao trong vài tuần thay vì vài tháng và nhân viên được phép tự quyết định.
Khi giá cả không còn là yếu tố cạnh tranh hiệu quả, các doanh nghiệp lựa chọn dịch vụ khách hàng như một cứu cánh để tạo lợi thế cạnh tranh và thu hút khách hàng.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự