Nhu cầu tôm Thái Lan trên thị trường Mỹ dự báo tiếp tục tăng mạnh, trong khi thị phần cá tra của Việt Nam tại Mỹ cũng bị cạnh tranh bởi Trung Quốc.

Tính chung 9 tháng đầu năm 2015, kim ngạch nhập khẩu giấy các loại ước đạt 1,06 tỷ USD, tăng 2,05% so với cùng kỳ năm trước (tương ứng với kim ngạch 21 triệu USD).
Báo cáo của Trung Tâm Thông Tin Công nghiệp và Thương Mại - Bộ Công Thương (VITIC) cho thấy, giá nhập khẩu giấy các loại trong tháng 9/2015 tăng 4,25% so với tháng trước đó nhưng vẫn giảm 3,88% so với tháng 9/2014. Tính chung 9 tháng đầu năm 2015, giá giấy các loại nhập khẩu giảm 4,19% so với cùng kỳ năm trước.
Giá nhập khẩu tăng so với tháng 8/2015 do nhóm hàng HS 48.11 (giấy, cáctông, tấm lót xenlulo và súc xơ sợi xenlulo, đã tráng, thấm tẩm, phủ, nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt...) tăng 8,77%. Bên cạnh đó là nhóm HS 48.04 (giấy và cáctông kraft không tráng, ở dạng cuộn hoặc tờ, trừ loại thuộc nhóm 48.02 hoặc 48.03) giá cũng tăng thêm 6,85%. Các nhóm hàng còn lại giá giảm, 3 nhóm có kim ngạch nhập khẩu lớn giá giảm thêm lần lượt 0,18%, 1,37% và 1,58%.
So với tháng 9/2014, duy nhất nhóm hàng HS 48.04 giá tăng 5,56%. Các nhóm hàng còn lại giá vẫn giảm. Trong 4 nhóm hàng có kim ngạch lớn, nhóm HS 44.18 giảm nhiều nhất với 10,68% và giảm nhất là HS 48.02 với 3,36%.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2015, trong 8 nhóm hàng giấy nhập khẩu chính, duy nhất nhóm HS 48.11 giá tăng 0,30%. Các nhóm còn lại giá giảm dưới 11%, nhóm giá giảm nhiều nhất là HS 48.01 với 10,89%, tiếp đến là HS 48.10 giảm 5,67% và ít nhất là HS 48.02 với 1,59%.
Nhóm HS 48.10 (giấy và cáctông, đã tráng một hoặc cả hai mặt bằng một lớp cao lanh hoặc bằng các chất vô cơ khác…) chủ yếu được các doanh nghiệp nhập khẩu từ thị trường Hàn Quốc, Hồng Kông, Indonesia, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Áo, Malaysia... Giá nhập khẩu giảm trong những tháng qua do giá các nhóm hàng lớn giảm.
Nhóm HS 48.10.13 (giấy dùng để in hoặc mục đích đồ bản, hàm lượng bột giấy cơ học hoặc hoá học không quá 10% dạng cuộn) giảm thêm 4,94% so với tháng 8/2015, giảm tới 12,47% so với tháng 9/2014 (mức cao nhất trong các nhóm hàng) và giảm 5,93% so với 9 tháng năm 2014.
Giá một số loại giấy nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản tiếp tục giảm, giấy tráng 2 mặt định lượng 60g/m2 có giá 610 USD/tấn-CIF, giảm 29 USD/tấn so với tháng trước và giảm 90 USD/tấn so với tháng 9/2014; giấy tráng 2 mặt định lượng 64g/m2 ở mức 589 USD/tấn-CIF, giảm 40 USD/tấn so với tháng trước nhưng giảm tới 141 USD/tấn so với tháng 9/2014; giấy tráng 2 mặt định lượng 79g/m2ở mức 613 USD/tấn-CIF, giảm 6 USD/tấn so với tháng trước và giảm tới 160 USD/tấn so với tháng 9/2014.
Nhóm HS 48.10.92 (giấy và cáctông khác nhiều lớp) giá giảm thêm 1,02% so với tháng trước, giảm 3,73% so với tháng 9/2014 và giảm 7,47% so với 9 tháng năm 2014.
Giá một số mặt hàng nhập khẩu từ Đài Loan cũng giảm, giấy Duplex định lượng 270g/m2 giảm xuống 535 USD/tấn-CIF, giấy Duplex định lượng 350g/m2 giảm xuống 548 USD/tấn-CIF, nhưng giấy Duplex định lượng 300g/m2 tăng lên 546 USD/tấn-CIF.
Nhóm HS 48.10.29 (giấy dùng để in hoặc mục đích đồ bản, hàm lượng bột giấy cơ học hoặc hoá học trên 10% loại khác) giá quay đầu tăng 1,08% so với tháng trước, nhưng giảm 4,36% so với tháng 9/2014 và giảm 2,55% so với 9 tháng năm 2014. Giá một số loại giấy nhập khẩu từ Hàn Quốc giảm nhưng từ Indonesia tăng. Từ Hàn Quốc, giấy mỹ thuật định lượng 100g/m2 giảm xuống 725 USD/tấn-CIF, giấy mỹ thuật định lượng 200g/m2 giảm xuống 725 USD/tấn-CIF. Từ Indonesia, giấy mỹ thuật định lượng 210g/m2 tăng lên 812 USD/tấn-CIF, giấy mỹ thuật định lượng 230g/m2 tăng lên 825 USD/tấn-CIF, giấy mỹ thuật định lượng 250g/m2 tăng lên 818 USD/tấn-CIF.
Nhu cầu tôm Thái Lan trên thị trường Mỹ dự báo tiếp tục tăng mạnh, trong khi thị phần cá tra của Việt Nam tại Mỹ cũng bị cạnh tranh bởi Trung Quốc.
Giá xuất khẩu tháng 9/2015 tăng 0,21% so với tháng trước và tăng tới 11,14% so với tháng 9/2014. Tính chung 9 tháng đầu năm 2015, giá hạt điều xuất khẩu tăng 10,25% so với cùng kỳ năm 2014.
Kể từ tháng 5/2015, Anh vượt qua Đức trở thành thị trường lớn nhất về nhập khẩu tôm Việt Nam trong khối EU. Tháng 8/2015, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Anh chiếm 4,7% tổng xuất khẩu tôm của Việt Nam trong khi xuất khẩu tôm sang Đức chiếm 3,1%.
Tính chung 9 tháng năm 2015, kim ngạch tân dược nhập khẩu ước đạt 1.656 triệu USD, tăng 11,59% (tương đương 172 triệu USD) so với cùng kỳ năm 2014.
Nhiều doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng xuất khẩu rau quả của VN có thể còn vượt xa mức 2 tỉ USD trong năm nay nếu như giảm cước, phí thủ tục và vận chuyển...
Trong 3 tháng cuối năm 2015, các doanh nghiệp ngành gỗ cần nhiều hơn 500 triệu USD để nhập khẩu gỗ.
Nhiều nước mở cửa thị trường cho trái cây tươi của VN nhưng xuất khẩu vẫn khó do cước vận chuyển bằng đường hàng không chiếm tới 50% giá thành, khó cạnh tranh với trái cây của các nước.
8 tháng năm 2015, tổng giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường Ảrập Xêút đạt 42,46 triệu USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 4,2% tổng xuất khẩu cá tra của Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, xuất khẩu trái cây Việt Nam liên tục tăng, từ 827 triệu USD (2012) lên 1 tỷ USD (2013) và 1,477 tỷ USD (2014). Với kết quả tăng trưởng khả quan này, năm 2015, Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu trái cây lên 2 tỷ USD. Liệu đích ngắm ấy có quá xa?
Nhu cầu sụt giảm, cạnh tranh về giá... khiến nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giảm từ vài nghìn đến vài chục nghìn tỷ đồng so với 9 tháng cùng kỳ 2014.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự