Càng về những ngày cuối tuần, giá hàng hoá càng có xu hướng hồi phục trở lại sau khi giảm mạnh sau sự kiện Brexit.
Phiên giao dịch cuối tuần 1/7 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 2/7 giờ VN), giá dầu hồi phục khi thị trường bớt lo ngại về những ảnh hưởng từ Brexit.
Đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 8/2016 trên sàn New York tăng 66 cent, tương ứng 1,4%, lên 48,99 USD/thùng. Tính chung cả tuần, WTI tăng 1,35 USD/thùng, hay 2,8%, ghi nhận mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ giữa tháng 5. Giá dầu Brent giao tháng 9/2016 trên sàn London tăng 64 cent, tương đương 1,3%, lên 50,35 USD/thùng. Cả tuần, Brent tăng 1,31 USD/thùng, hay 2,7%, mức tăng lớn nhất kể giữa tháng 5. Cả dầu WTI và Brent đều tăng giá 3 trong 4 tuần vừa qua.
Giới đầu tư đang quay lại thị trường. Nhiều nhà phân tích cho rằn nền kinh tế Anh quá nhỏ tính trên bình diện toàn cầu và sẽ tác động hạn chế đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu nên sẽ không kéo giảm đáng kể tăng trưởng nhu cầu dầu thô.
Một số nhà phân tích cho rằng giá dầu có thể vẫn tăng trong những tháng tới nếu sản lượng dầu tiếp tục giảm tại nhiều khu vực. Sản lượng dầu thô của Mỹ trong tháng 4/2016 giảm 220.000 thùng/ngày, mức giảm lớn nhất kể từ tháng 9/2008.
Tuy nhiên, ngày 1/7, các nhà phân tích tại Barclays cảnh báo rằng những bất ổn trên thị trường tài chính sẽ kéo giảm nhu cầu dầu thô - trái với dự đoán của nhiều ngân hàng đưa ra đầu tuần rằng điều này không xảy ra.
Barclays đã điều chỉnh dự đoán về tăng trưởng nhu cầu dầu thô trong năm 2016 xuống 1,1 triệu thùng/ngày so với 1,2 triệu thùng/ngày trước đó, trong khi hạ dự báo năm 2017 xuống 1,2 triệu thùng/ngày từ 1,3 triệu thùng/ngày trước đó.
Barclays cũng hạ dự báo giá dầu Brent trong năm 2016 xuống 44 USD/thùng và giá dầu WTI xuống 43 USD/thùng, đều giảm 3 USD/thùng so với dự báo trước đó.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng trong phiên cuối tuần, và là tuần thứ 5 tăng liên tiếp do USD suy yếu và triển vọng nới lỏng chính sách tiền tệ sau sự kiện Brexit.
Giá vàng giao ngay phiên cuối tuần tăng 1,2% lên 1.337,6 USD/ounce, vàng giao tháng 8/2016 tăng 1,4% lên 1.339 USD/ounce.
USD giảm 0,5% so với các đồng tiền chủ chốt trong giỏ tiền tệ trong khi chứng khoán châu Âu hồi phục trước những dấu hiệu cho thấy các ngân hàng trung ương như Ngân hàng trung ương Anh, Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) và Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) sẽ nới lỏng hơn nữa các điều kiện tiền tệ.
Nhu cầu vàng với tư cách tài sản trú ẩn đã đẩy giá kim loại quý tăng mạnh khi giới đầu tư đổ tiền vào hầm trú ẩn nhằm tự bảo vệ trước những biến động khi người Anh bỏ phiếu ra khỏi EU (Brexit).
Lo ngại về nền kinh tế toàn cầu cũng làm giảm khả năng Fed nâng lãi suất trong những tháng tới, nhưng sẽ phụ thuộc nhiều vào số liệu kinh tế của Mỹ và thị trường sẽ theo dõi sát sao số liệu việc làm phi nông nghiệp, công bố vào ngày 8/7, để có thêm manh mối.
Ngày 30/6, Societe Generale đã nâng dự báo giá vàng do lo ngại về tác động chính trị, tài chính và kinh tế của sự kiện Brexit.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay 5% lên 19,64 USD/ounce, giá bạch kim lên cao nhất kể từ ngày 18/5 ở 1.055 USD/ounce và giá palladium tăng 1,2% lên 602,05 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá nickel tăng lên mức cao nhất 8 tháng do lo ngại về khả năng đóng cửa mỏ ở Philippines, trong khi kẽm cao nhất 1 năm. Đồng USD yếu và hy vọng Trung Quốc kích thích kinh tế mạnh tay hơn nữa cũng góp phần đẩy nhóm kim loại này tăng giá.
Đường vừa qua tuần tăng giá mạnh nhất trong vòng 4 tháng do USD giảm và số liệu về sản lượng ở Brazil gây lo ngại sau khi mưa quá lớn.
Trên thị trường nông sản, đường thô kỳ hạn giao tháng 10 tại New York phiên cuối tuần giá tăng 0,45 US cent hay 2,21% lên 20,78 US cent/lb. Phiên trước đó, giá có lúc đã lên tới mức cao kỷ lục 3 năm rưỡi là 21,22 US cent. Hợp đồng này đã tăng giá 8,5% trong tuần qua, mạnh nhất kể từ cuối tháng 2.
Giá cà phê đồng loạt tăng trong phiên cuối tuần. Tại London, robusta tăng 27-46 USD/tấn, trong khi tại New York, arabica tăng 0,75-0,9 US cent/lb.
Theo số liệu của chính phủ Indonesia, xuất khẩu cà phê của Đảo Sumatra (chủ yếu là Robusta) trong tháng 6/2016 đạt 154.260 bao, giảm 350.983 bao, hay 69,47%, so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu cà phê của đảo này trong 9 tháng đầu niên vụ 2015-2016 đạt 1.710.511 bao, giảm 1.568.615 bao, hay 47,84%, so với cùng kỳ năm trước.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa | ĐVT | Giá 25/6 | Giá 2/7 | Giá 2/7 so với 1/7 | Giá 2/7 so với 1/7 (%) |
Dầu thô WTI | USD/thùng | 47,64 | 48,99 | +0,66 | +1,37% |
Dầu Brent | USD/thùng | 48,41 | 49,68 | -0,93 | -1,84% |
Dầu thô TOCOM | JPY/kl | 29.550,00 | 30.710,00 | +300,00 | +0,99% |
Khí thiên nhiên | USD/mBtu | 2,67 | 2,99 | 0,00 | -0,03% |
Xăng RBOB FUT | US cent/gallon | 152,50 | 151,35 | +1,22 | +0,81% |
Dầu đốt | US cent/gallon | 145,53 | 151,15 | +2,28 | +1,53% |
Dầu khí | USD/tấn | 438,00 | 439,00 | -7,25 | -1,62% |
Dầu lửa TOCOM | JPY/kl | 42.390,00 | 43.570,00 | +100,00 | +0,23% |
Vàng New York | USD/ounce | 1.322,40 | 1.339,00 | +18,40 | +1,39% |
Vàng TOCOM | JPY/g | 4.316,00 | 4.388,00 | +10,00 | +0,23% |
Bạc New York | USD/ounce | 17,77 | 19,86 | +0,27 | +1,36% |
Bạc TOCOM | JPY/g | 58,00 | 64,70 | +1,50 | +2,37% |
Bạch kim giao ngay | USD/t oz. | 985,40 | 1.058,95 | +34,55 | +3,37% |
Palladium giao ngay | USD/t oz. | 546,93 | 605,63 | +5,91 | +0,99% |
Đồng New York | US cent/lb | 211,60 | 221,70 | +2,15 | +0,98% |
Đồng LME 3 tháng | USD/tấn | 4.698,00 | 4.911,00 | +66,00 | +1,36% |
Nhôm LME 3 tháng | USD/tấn | 1.617,50 | 1.664,50 | +15,50 | +0,94% |
Kẽm LME 3 tháng | USD/tấn | 2.018,00 | 2.155,00 | +50,50 | +2,40% |
Thiếc LME 3 tháng | USD/tấn | 17.150,00 | 17.470,00 | +420,00 | +2,46% |
Ngô | US cent/bushel | 389,00 | 360,00 | -5,50 | -1,50% |
Lúa mì CBOT | US cent/bushel | 465,00 | 430,25 | -15,25 | -3,42% |
Lúa mạch | US cent/bushel | 205,75 | 192,75 | -9,00 | -4,46% |
Gạo thô | USD/cwt | 11,01 | 10,45 | -0,19 | -1,83% |
Đậu tương | US cent/bushel | 1.078,50 | 1.137,50 | -15,75 | -1,37% |
Khô đậu tương | USD/tấn | 373,40 | 398,00 | -3,00 | -0,75% |
Dầu đậu tương | US cent/lb | 31,66 | 31,64 | -0,43 | -1,34% |
Hạt cải WCE | CAD/tấn | 476,90 | 495,70 | +7,30 | +1,49% |
Cacao Mỹ | USD/tấn | 3.023,00 | 2.995,00 | +32,00 | +1,08% |
Cà phê Mỹ | US cent/lb | 137,15 | 146,40 | +0,75 | +0,51% |
Đường thô | US cent/lb | 19,16 | 20,78 | +0,45 | +2,21% |
Nước cam cô đặc đông lạnh | US cent/lb | 166,30 | 178,25 | +1,05 | +0,59% |
Bông | US cent/lb | 64,42 | 64,99 | +0,82 | +1,28% |
Lông cừu (SFE) | US cent/kg | -- | -- | -- | -- |
Gỗ xẻ | USD/1000 board feet | 303,50 | 315,00 | +7,30 | +2,37% |
Cao su TOCOM | JPY/kg | 150,60 | 154,70 | -1,10 | -0,71% |
Ethanol CME | USD/gallon | 1,58 | 1,61 | +0,00 | +0,12% |
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg/Vinanet