Sự thiếu chuyên nghiệp, manh mún trong sản xuất hàng hoá, báo động đỏ về vệ sinh, an toàn thực phẩm... là những vấn đề lớn được đặt ra với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.

Hiện nay, nước ta có khoảng 46% lực lượng lao động đang lao động trong khu vực nông nghiệp, trong đó chỉ khoảng 250.000 lao động làm việc trong các DN đăng ký theo Luật Doanh nghiệp hoặc các hợp tác xã.
Còn lại khoảng 23 triệu lao động trong khu vực phi chính thức, đó là kinh tế hộ gia đình hoặc các công việc không ổn định khác. Tính trên toàn bộ nền kinh tế, cả nước có khoảng 42 triệu lao động đang làm việc trong khu vực phi chính thức.
Trước niềm vui TPP được thông qua, người ta nghĩ đến một góc khuất về số phận của những lao động phi chính thức này. Đó là, khi tham gia vào TPP, DN Việt Nam nếu cạnh tranh được sẽ lớn lên, ngược lại một số khác có thể bị thay thế bởi những DN đầu tư khác ở bên ngoài.
Rồi khi hàng nhập khẩu có tính cạnh tranh cao hơn hàng sản xuất trong nước sẽ làm cho nông dân mất việc làm. Ví dụ, hàng hóa nông nghiệp đặc biệt là chăn nuôi từ Mỹ, New Zealand được cho là sẽ tạo sức ép cạnh tranh rất cao trong ngành chăn nuôi Việt Nam.
Thêm vào đó, hiện nay các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam nói chung là có tiêu chuẩn thấp hơn các nước thành viên TPP, do đó nếu dựng hàng rào kỹ thuật để bảo hộ thị trường trong nước thì sẽ vi phạm điều khoản chống phân biệt đối xử.
Ở góc nhìn khác, sự thay đổi về phương thức sản xuất ở trong nước khi đã thích ứng với môi trường cạnh tranh từ bên ngoài buộc phải chuyển sang sản xuất lớn, quy mô công nghiệp, nhưng sản xuất lớn với quy mô công nghiệp sẽ làm cho nhu cầu lao động giảm xuống.
Đơn cử, sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay thì có thể cần một nghìn người, thậm chí cả triệu người để tham gia sản xuất chăn nuôi. Nhưng nếu đầu tư trang trại quy mô chuẩn thì chỉ cần vài trăm người là có thể sản xuất quy mô lớn. Như vậy lao động về nông nghiệp sẽ dư thừa lớn.
Trước thực tế không mấy sáng sủa, thậm chí là cửa tử của lao động nông nghiệp Việt Nam, với quan điểm phân tích, TS. Nguyễn Tú Anh đưa ra khá nhiều giải pháp để cải thiện tình hình. Trong đó, vai trò của DN được đặc biệt chú trọng.
Trước hết, muốn cạnh tranh thành công phải hình thành nên các DN sản xuất quy mô lớn và từ đó tạo lập nên các mối liên kết với các DN nhỏ làm các nhà cung ứng đầu vào, cung ứng các dịch vụ đầu ra, liên kết với các tổ chức cung ứng dịch vụ cần thiết như kỹ thuật, lao động, tư vấn… để hình thành nên các cụm liên kết ngành. Sức mạnh cạnh tranh mang tính toàn cụm và do các DN dẫn đầu kiểm soát.
Việc làm sẽ được tối đa hóa nếu hình thành được các cụm liên kết ngành. Nếu chỉ các DN đơn lẻ thì sức mạnh cạnh tranh của các DN sẽ bị chia nhỏ và do đó mức độ việc làm tạo ra sẽ rất hạn chế. Các DN quy mô lớn kể cả trong nông nghiệp đóng vai trò đầu tàu của các cụm liên kết ngành này, tạo điều kiện cho DN nhỏ và vừa trong công nghiệp và dịch vụ kết nối và phát triển.
Một yếu tố cũng khá quan trọng là các DN lớn của nước ta sau khi tích lũy tư bản đủ lớn, áp lực dư thừa lao động giảm thì tiến hành đầu tư trực tiếp ở một số nước thông qua việc mua lại DN công nghệ cao của họ để phát triển công nghệ lõi cho chính mình.
Thiết nghĩ, những giải pháp mà vị Tiến sĩ trên đưa ra đang vừa tầm và các DN nếu thiện chí có thể thực hiện ngay được. Sẽ có ý kiến cho rằng việc giải quyết lao động là việc của nhà nước, là vai trò của nhà điều hành. Thế nhưng, có một điều mà DN cần lưu ý rằng một DN hay một đất nước không thể phát triển toàn diện nếu có một đội ngũ tới vài trăm triệu lao động thất nghiệp.
Khi đó, bất bình đẳng trong xã hội gia tăng, nguy cơ bất ổn xã hội lớn, thậm chí dẫn đến bạo loạn. Và đây là bài học của rất nhiều quốc gia từng trải qua, họ đã thất bại trong việc phát triển nếu đời sống xã hội không được giải quyết…
Vũ Hoàng
(Thời báo Ngân hàng)
Sự thiếu chuyên nghiệp, manh mún trong sản xuất hàng hoá, báo động đỏ về vệ sinh, an toàn thực phẩm... là những vấn đề lớn được đặt ra với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
Hoạt động theo mô hình chuỗi giá trị, liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, thay vì cung ứng đầu vào… là “con đường sống” hiện nay của các hợp tác xã (HTX).
Các doanh nghiệp Nhật Bản có xu hưởng giảm đầu tư vào các lĩnh vực quen thuộc như chế tạo, bán lẻ, địa ốc… trong khi tăng mạnh trong nông nghiệp để đón đầu lợi ích từ các hiệp định thương mại mới, nhất là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Theo cách tính của nông dân tái canh cà phê, 2 năm cải tạo đất, cộng 3 năm kiến thiết cơ bản, bà con phải chờ đến 5 năm sau mới có thu hoạch. Trong 5 năm đó biết lấy gì để sống?
Trong 30 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, phần lớn người nghèo sống ở nông thôn nhờ đó đã cải thiện đời sống, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước...
Ngay sau hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát đã trả lời Tuổi Trẻ xoay quanh các giải pháp trước mắt và lâu dài cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ông nói:
Việt Nam có những lợi thế rất lớn để phát triển nông nghiệp, nhưng lại đang thiếu lực lượng chủ công, quan trọng nhất để phát triển nông nghiệp.
Năm 2015 được đánh giá là một năm vượt khó ngoạn mục của ngành nông nghiệp Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành duy trì ở mức trên 30 tỷ USD.
Hiện có rất nhiều nông dân trồng thanh long ở Long An và Tiền Giang đang đốn bỏ thanh long ruột trắng để trồng thanh long ruột đỏ.
Do nhiễm mặn nên những cánh đồng lúa hàng ngàn hecta của tỉnh Kiên Giang đang phơi mình chết trắng, kéo theo đó là hàng ngàn hộ nông dân xao xác vì lâm cảnh nợ nần, trắng tay.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự