Phải chăng mặt trái của tấm huy chương bốn năm tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định chính là ở chỗ đã “ru ngủ” các nhà đầu tư và công chúng nhờ việc bảo hộ tỷ giá, để rồi dễ bị hoảng hốt?

Mức độ an toàn của nợ công Việt Nam hiện nay được đánh giá là “rủi ro vỡ nợ thấp”, nhưng khả năng trả nợ từ nguồn thu ngân sách hạn chế và nợ công còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, mức độ an toàn nợ công không bền vững.
Nhận định trên được ông Đào Văn Hùng, Giám đốc Học viện Chính sách và phát triển đưa ra tại Hội thảo Cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập và phát triển giai đoạn 2015 – 2035 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức.
Dẫn ra từ nghiên cứu “Xác định phạm vi nợ công và trần nợ công an toàn của Việt Nam giai đoạn 2015 – 2020”, ông Hùng cho biết nợ công năm 2013 tính theo Luật Quản lý nợ công (năm 2009) là 54,2% GDP.
Tuy nhiên, nợ công tính thêm nợ phải trả của Ngân sách nhà nước trung ương và địa phương ước khoảng 165.000 tỷ, tương đương 4,55% GDP năm 2013.
Rủi ro vỡ nợ thấp
Nợ công tính thêm các khoản nợ của Ngân hàng phát triển Việt Nam và ngân hàng chính sách xã hội tính đến cuối năm 2013 là khoảng 41,4 ngàn tỷ (tương đương 1,15% GDP năm 2013).
Nợ công tính thêm nợ bất khả kháng, tức chiếm 5% tổng nợ công trong nước là 49,519 tỷ (tương đương 1,38% GDP năm 2013).
Như vậy, các khoản nợ công trên khiến cho tỷ lệ nợ công/GDP là 61,28%. Như vậy cao hơn 7,08% so với cách tính theo Luật Quản lý nợ công năm 2009.
Hiện nợ vay trong nước (50,99%) có tỷ trọng cao hơn so với nợ vay nước ngoài và có xu hướng tăng.
Kết quả nghiên cứu về mức độ an toàn nợ công của Việt Nam đang được đánh giá là “rủi ro vỡ nợ thấp”, nhưng khả năng trả nợ từ nguồn thu ngân sách còn hạn chế và nợ công còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nên mức độ an toàn nợ công là không bền vững.
Cũng bởi, tỷ lệ nghĩa vụ trả chính phủ/thu ngân sách và nghĩa vụ trả nợ công/thu ngân sách đang ở mức cao và có xu hướng tăng, ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ và sự an toàn nợ công.
Cụ thể, tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ/Tổng thu ngân sách của Việt Nam năm 2013 là 22,6% (bao gồm cho vay lại); dự báo năm 2014 là 25,92% và năm 2015 31,87%.
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ công/tổng thu ngân sách, bao gồm nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ, nghĩa vụ trả nợ bảo lãnh Chính phủ và nghĩa vụ trả nợ của chính quyền địa phương năm 2013 tỷ là 33,39% gồm cho vay lại; dự báo năm 2014 là 38,7% và năm 2015 là 45,02%.
Nguyên nhân khiến cho nghĩa vụ trả nợ công tăng cao năm 2014 – 2015 là do vay nợ trái phiếu 2013 kỳ hạn rất ngắn, chủ yếu phải trả vào năm 2014 và 2015, khi có tới gần 70% trái phiếu năm 2013 có kỳ hạn dưới 2 năm.
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ công/thu ngân sách của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực: Malaysia: 8,8%; Philippines 16,7%; Thái Lan: 2,1%; Nhật Bản là 24,7%.
Bội chi lớn hơn chi đầu tư phát triển
Cân đối nguồn trả nợ trong ngân sách Nhà nước hiện không đủ, vay để trả nợ gốc ngày càng tăng. Vay trả nợ gốc năm 2014 là gần 80.000 tỷ; năm 2015 là 130.000 tỷ.
Bội chi lớn hơn chi đầu tư phát triển, làm giảm tính bền vững nợ công và tạo ra rủi ro lớn cho ngân sách trong trung và dài hạn. Từ đầu năm 2014 Việt Nam bắt đầu phải vay để chi tiêu, trả lãi và trả nợ, chứ không vay để đầu tư, đã làm giảm tính bền vững của nợ công trong tương lai.
Trong dó, theo dự toán ngân sách năm 2014, số bội chi là 224 ngàn tỷ, đã vượt 61 ngàn tỷ so với chi đầu tư phát triển là 163 ngàn tỷ. Dự toán năm 2015, chi đầu tư phát triển là 195 ngàn tỷ, bội chi ngân sách 226, tức là chênh lệch 31 ngàn tỷ.
Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam cũng cao hơn nhiều so với mức bình quân của các nước đang phát triển và các nước trong khu vực. Hiện tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam tính theo cách tính của nhóm nghiên cứu là 61,28% năm 2013 và tăng lên 66,4% năm 2014.
Mức này cao gấp 1,73 lần mức bình quân của các nước đang phát triển và cao nhất trong nhóm nước đang phát triển trong khối ASEAN. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều rủi ro làm tăng nợ công và có thể ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.
(Theo CafeF)
Phải chăng mặt trái của tấm huy chương bốn năm tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định chính là ở chỗ đã “ru ngủ” các nhà đầu tư và công chúng nhờ việc bảo hộ tỷ giá, để rồi dễ bị hoảng hốt?
Ông Lê Đức Thọ cho biết, trong 2 ngày gần đây, giao dịch USD/VND trên thị trường tăng lên rất nhiều và giá bắt đầu có xu hướng giảm xuống dưới mức giá trần.
Tỷ giá USD/VND có dấu hiệu hạ nhiệt, nhu cầu mua theo đó cũng thận trọng với giá cao trong khi nguồn cung tăng lên giúp cải thiện thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng hiện phổ biến ở mức 4%- 7,5%/năm, cao hơn rất nhiều so với lạm phát
Bình quân một dự án FDI của Ấn Độ tại Việt Nam có số vốn đăng ký gần 4 triệu USD, thấp hơn mức trung bình của một dự án FDI tại Việt Nam hiện nay là khoảng hơn 14 triệu USD.
Đối với những người quen với gửi tiết kiệm lĩnh lãi, theo TS Trần Hoàng Ngân, vẫn tiếp tục duy trì chứ không nên đầu tư vào vàng, USD đều rất rủi ro.
Sau hàng loạt thay đổi, cuối cùng bộ máy lãnh đạo của Ngân hàng Đông Á cũng đã tìm được những gương mặt mới để tiếp tục vực dậy ngân hàng trong thời gian sắp tới.
Vốn đăng ký đạt 13,34 tỷ USD, tăng 30,4% so với cùng kỳ nhưng vốn thực hiện mới chỉ tăng 7,6% so với cùng kỳ.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ký ban hành chỉ thị về việc tăng cường quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước.
Công nghiệp chế biến, chế tạo và khai khoáng là 2 lĩnh vực thu hút nhà đầu tư Ấn Độ vào Việt Nam...
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự