Việc cho vay đảo nợ (cho vay nợ mới để trả nợ cũ) rất rủi ro nếu cho vay đảo nợ không đúng quy định, không đảm bảo các điều kiện cho vay an toàn, trong đó có việc nhằm mục đích che giấu, lấp liếm nợ xấu.

Im ắng suốt 4 năm, “huy động vàng trong dân” tiếp tục được xới xáo bởi một kiến nghị từ Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam...
Im ắng suốt 4 năm kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 24 và Ngân hàng Nhà nước quyết tâm đẩy “virus vàng” ra khỏi hệ thống ngân hàng để lành mạnh hóa hoạt động thì tuần qua, “huy động vàng trong dân” tiếp tục được xới xáo bởi một kiến nghị từ Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam.
Một trong những lý do cơ bản để Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đưa ra kiến nghị trên là nguồn lực 500 tấn vàng người dân nắm giữ đang bị lãng phí trong khi nguồn vốn ODA dần bị “cai sữa”.
Công cụ đầu tư hay “của để dành” thụ động?
Trao đổi với chuyên gia Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh doanh (BDI), ông cho rằng, đó là việc không nên làm và chưa thể làm được bởi mấy lý do sau.
Thứ nhất, vàng chỉ là một loại tài sản để dành, có ý nghĩa trong trường hợp dòng tiền “chạy trốn”, phòng ngừa rủi ro khi mọi cơ hội đầu tư khác khép lại, thay vì kênh đầu tư có tính chất phát triển.
Nói cách khác, vàng là công cụ bảo hiểm, “của để dành” một cách thụ động hơn là công cụ đầu tư hiệu quả. Bởi thế, những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, họ ít hoặc không quan tâm đến vàng, nhất là trong bối cảnh thị trường tài chính không biến động lớn.
“Thậm chí, những quốc gia ổn định dài hạn, vàng đơn thuần là vật trang sức. Có người còn lấy vàng làm bộ ấm trà uống nước, chẳng có gì ghê gớm”, ông Nghĩa nói.
Thứ hai, nói rằng “người dân Việt Nam đang nắm giữ 500 tấn vàng” thì chỉ là số liệu mơ hồ, bởi chưa từng có một báo cáo thống kê chi tiết và đáng tin cậy từ một tổ chức nghiên cứu độc lập hay cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, số liệu vàng ở Việt Nam đều được cung cấp bởi các tổ chức quốc tế nào đó, họ nói bao nhiêu thì biết vậy.
Giả định rằng, số liệu vàng 500 tấn kia là có thật và Nhà nước hành xử như kiến nghị của Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam thì đồng nghĩa chấp nhận với tình trạng “chảy máu, thất thoát ngoại tệ”.
Ở chỗ, khi coi vàng là kênh đầu tư quan trọng, cho phép vận hành trong mọi ngõ ngách kinh doanh thì sẽ phải đánh đổi một lượng ngoại tệ lớn để nhập khẩu vàng. Trong khi đó, ngoại tệ, xét về khả năng thanh toán, luân chuyển tiền tệ, phương tiện đầu tư tích cực thì còn có ý nghĩa hơn vàng rất nhiều. Chưa nói, ngoại tệ hỗ trợ xuất nhập khẩu, tăng dự trữ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán của nền kinh tế với bên ngoài.
Thứ ba, ở Việt Nam, chưa thể tổ chức được thị trường vàng chính thống và minh bạch; thay vào đó, là một thị trường vàng đầu cơ, buôn lậu, nhập lậu. Cũng chưa có một cơ quan quản lý nào đó được tổ chức một cách chặt chẽ, đủ tầm để nắm rõ dòng luân chuyển ra vào biên giới của vàng.
Vì vậy, nếu tiếp tục xới xáo câu chuyện kinh doanh vàng như trước 2011, chắc chắn hàng loạt doanh nghiệp, ngân hàng lại lao vào cuộc chơi “đỏ đen” với vàng, làm cho thị trường tài chính lâm vào rủi ro và méo mó.
Nói cách khác, hoạt động tổ chức, giám sát quản lý thị trường vàng hiện còn yếu nên chưa thể đề cập đến chuyện huy động vàng trong dân.
Ai quản lý thị trường vàng?
Có khá nhiều câu hỏi phải trả lời trong trường hợp Chính phủ đồng ý với kiến nghị của Hiệp hội Kinh doanh vàng; trong đó, nổi lên hai vấn đề: ai gánh chịu rủi ro về thanh khoản kỳ hạn, giá và cơ quan nào đứng ra tổ chức, quản lý, giám sát thị trường vàng.
Chuyên gia tài chính độc lập Nguyễn Trí Hiếu nói: “Kể ra huy động được khối vàng đó để đầu tư trở lại vào nền kinh tế cũng rất tốt nhưng phải khớp được kỳ hạn và giá. Dân nhà mình có thói quen gửi ngắn, nếu Nhà nước huy động rồi đầu tư chỗ khác không kịp rút về để trả cho dân, rồi giá lên xuống phập phù là những rủi ro không dễ dàng cáng đáng”.
Ông Hiếu cũng cho rằng, không nên để các ngân hàng nhập cuộc thị trường vàng vì làm như thế, sẽ đi ngược chủ trương chống “vàng hóa” trong nền kinh tế.
Liên quan đến vấn đề tổ chức và quản lý thị trường vàng, ông Nguyễn Đức Thành - Viện trưởng Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) phân tích, vàng vừa là hàng hóa, vừa là tài sản. Về mặt hàng hóa, vàng cũng giống như cà phê, hạt điều, hạt tiêu; còn về mặt tài sản, vàng là thứ để tích lũy và chịu quy luật giá cả lên xuống. Nếu chỉ như vậy thôi, cơ quan quản lý phải là Bộ Công Thương.
Tuy nhiên, do là thứ hàng hóa đặc biệt quý hiếm, nhiều năm liền coi vàng gần với tiền nên đã có sự nhầm lẫn trong xác định cơ quan quản lý.
Ông Thành cho rằng, 4 năm qua, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã hành động đúng khi loại bỏ vàng khỏi hệ thống ngân hàng khi cấm tiệt huy động cho vay. Nhờ đó, vàng không còn trở thành nhân tố làm hư hỏng tài chính không ít ngân hàng và góp phần ngăn chặn nạn “vàng hóa” trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc tổ chức “sân chơi” cho thị trường vàng là đáp ứng nhu cầu chính đáng của thị trường và là việc nên làm. Theo đó, cần xây dựng một thị trường mà ở đó, vàng là tài sản, là công cụ đầu tư giống như chứng khoán.
Người dân, nhà đầu tư có thể đánh lên đánh xuống, chấp nhận lời ăn lỗ chịu. Nhà nước không nên tham gia mua vào, bán ra mà chỉ thiết lập không gian, hành lang pháp lý, kiểm soát để thị trường hoạt động lành mạnh.
“Mỗi quốc gia có một mô hình quản lý thị trường vàng nhưng không ít quốc gia cấm tiệt ngân hàng thương mại tham gia. Họ e ngại ngân hàng với tiềm lực tài chính mạnh, có thể trở thành tay to, lũng đoạn thị trường. Ngân hàng Nhà nước không nên tham gia vào đó mà là một cơ quan độc lập như cơ quan quản lý thị trường chứng khoán”, ông Thành nói.
Việc cho vay đảo nợ (cho vay nợ mới để trả nợ cũ) rất rủi ro nếu cho vay đảo nợ không đúng quy định, không đảm bảo các điều kiện cho vay an toàn, trong đó có việc nhằm mục đích che giấu, lấp liếm nợ xấu.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị đối thoại với DN mới đây, nhiều ngân hàng thương mại đã giảm lãi suất xuống 0,5-1%/năm cho vốn vay trung dài hạn cùng nhiều gói vay ưu đãi dành cho DN. Tuy nhiên, các DN vẫn tỏ ra lo ngại về động thái này của các ngân hàng.
TS. Bùi Quang Tín tính toán, 12.000 doanh nghiệp kinh doanh vàng hiện đang nắm khoảng 72% trong số 500 tấn, số vàng trong các ngân hàng khoảng 1%. Số vàng còn lại trong dân cũng không hoàn toàn "ngủ yên" trong két sắt mà được giao dịch qua lại...
Hiệp hội Kinh doanh vàng VN vừa gửi kiến nghị thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia để góp phần huy động vàng hiệu quả. Các chuyên gia nói gì về kiến nghị này?
Mùa đại hội cổ đông ngân hàng năm 2016 đã khép lại, trừ 2 nhà băng vốn tiếng tăm trong số các ngân hàng cổ phần vẫn chưa tổ chức được đại hội, đó là Eximbank và Sacombank. Nguồn cơn bắt đầu từ câu chuyện “sóng ngầm” nhân sự cấp cao của 2 ngân hàng này mà như nhận định của giới trong nghề - chính là sở hữu chéo.
Trong quý vừa qua, tỷ phú Soros đã bán 37% lượng cổ phiếu ông nắm giữ trong khi đặt niềm tin vào vàng và cổ phiếu của các doanh nghiệp kinh doanh vàng.
Trần 0% đã hoàn thành sứ mệnh, cần đưa nó lên để lôi nguồn vốn lên cho mục tiêu mới.
Nhà sáng lập Kyle Bass của Hayman Capital nhận định nếu quả bom nợ tại Trung Quốc phát nổ thì cuộc khủng hoảng này sẽ lớn gấp 5 lần vụ vỡ bong bóng bất động sản ở Mỹ năm 2007.
Quốc gia thiếu vốn, dân lại găm giữ khoảng 500 tấn vàng tương đương hàng chục tỉ USD. Vàng là nguồn vốn, tiền bạc là huyết mạch của cơ thể quốc gia, bị ứ đọng chẳng khác gì bị tắc mạch máu. Chứng “đông máu nguồn vàng” trong dân tồn tại xưa nay, nhưng chưa có cách khai thông.
Ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam dốc vốn đầu tư sang Liên bang Nga, nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường. Hiện vốn đầu tư của Việt Nam tại Nga đã lớn hơn nhiều vốn đầu tư mà doanh nghiệp Nga đổ vào Việt Nam.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự