Chi phí trả lương lái xe, hao mòn, sửa chữa, xăng dầu… trong một năm của mỗi ôtô công tương đương khoảng 320 triệu đồng, theo tính toán của Cục Quản lý Công sản (Bộ Tài chính).
Nhiều giải pháp quan trọng cho giai đoạn 2016-2020
- Cập nhật : 24/10/2015
(Tin kinh te)
Sáng 20/10/2015, tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã trình bày Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011 - 2015; phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020 và năm 2016. Một trong những nội dung thu hút được sự quan tâm của dư luận là kết quả của quá trình tái cấu trúc nền kinh tế được Chính phủ triển khai quyết liệt trong thời gian qua và định hướng, giải pháp sắp tới để đạt được mục tiêu đề ra.
Nhiều kết quả nổi bật
Ngày 19/2/2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 với hàng loạt các giải pháp cụ thể.
Từ đó đến nay, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã quyết liệt triển khai thực hiện đồng bộ tái cơ cấu nền kinh tế và các ngành, lĩnh vực, tập trung vào các trọng tâm. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011 - 2015; phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020 và năm 2016 vừa được Thủ tướng Chính phủ trình bày tại tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII hôm 20/10đã chỉ rõ những kết quả nổi bật từ quá trình tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong thời gian qua, cụ thể:
Một là, về tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công: Triển khai thực hiện Luật Đầu tư công. Ban hành nguyên tắc, tiêu chí, định mức và phân bổ vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn, tập trung cho các dự án quan trọng và vốn đối ứng ODA. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải; ưu tiên xử lý nợ xây dựng cơ bản. Tăng cường phân cấp, đề cao trách nhiệm của Bộ ngành, địa phương và chủ đầu tư. Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội chuyển dịch tích cực, trong đó đầu tư công giảm từ 35,5% năm 2010 xuống còn khoảng 30% năm 2015, đầu tư của dân cư và DN trong nước tăng từ 36,1% lên 42%. Thống kê về cơ cấu đầu tư vốn đầu tư toàn xã hội bình quân giai đoạn 2011-2015 cho thấy: Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) là 21,3%, vốn trái phiếu chính phủ là 5,8%, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là 5%, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là 8,9%, vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân là 39,4%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 17,6%, vốn huy động khác là 2%...
Hai là, về tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là các ngân hàng thương mại: Tập trung xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém. Các ngân hàng thương mại bằng các biện pháp chủ động tự xử lý nợ xấu là chủ yếu; đồng thời phát huy vai trò của Công ty Quản lý tài sản (VAMC) tham gia xử lý nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ. Đến tháng 9 năm 2015, nợ xấu còn 2,9% và đã giảm 17 tổ chức tín dụng. Thanh khoản và an toàn hệ thống được bảo đảm; cung ứng vốn tốt hơn cho nền kinh tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Quy mô thị trường chứng khoán tăng, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP và thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015.
Ba là, về cơ cấu lại DNNN, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Tập trung vào cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. DNNN tập trung hơn vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu. Quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu được tăng cường. Đã sắp xếp 465 DNNN, trong đó cổ phần hóa 353 DN. Việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành và bán bớt phần vốn tại các DN cổ phần hóa thu về cao hơn giá trị sổ sách, gấp 1,47 lần. Năng lực quản trị, tiềm lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN được nâng lên; vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển. DNNN cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, trong đó năm 2015, tổng tài sản của DNNN tăng khoảng 36% so với năm 2010, vốn chủ sở hữu tăng 62%, doanh thu tăng 18%, lợi nhuận trước thuế tăng 56%; theo báo cáo hợp nhất tổng tài sản tăng 26%, vốn chủ sở hữu tăng 57%, doanh thu tăng 14%, lợi nhuận trước thuế tăng 16%...
Bốn là, về tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Tập trung tổ chức lại sản xuất. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; đẩy mạnh khai thác hải sản xa bờ. Hình thành một số khu nông nghiệp công nghệ cao, tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ quy mô lớn. Đa dạng hóa các loại hình hợp tác liên kết, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Nhân rộng các mô hình có hiệu quả cao. Khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Thu hút được nhiều nguồn lực và sự tham gia của người dân vào xây dựng nông thôn mới. Đến nay, đã có 9 huyện và 1.132 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 12,7%. Dự kiến đến cuối năm 2015, có khoảng 1.500 xã đạt chuẩn, chiếm 16,8%.
Năm là, về tái cơ cấu công nghiệp, dịch vụ. Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch tích cực; tỉ trọng công nghiệp khai khoáng giảm; tỉ trọng công nghiệp chế biến chế tạo, điện, điện tử có công nghệ cao tăng từ 49,8% năm 2010 lên khoảng 51% năm 2015. Năng lực và trình độ công nghệ ngành xây dựng được nâng lên. Các ngành dịch vụ, du lịch tiếp tục tăng trưởng.
Tuy nhiên, Báo cáo cũng chỉ ra những hạn chế, tồn tại của quá trình tái cấu trúc kinh tế trong thời gian qua. Theo đó, tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới chưa đạt yêu cầu. Hiệu quả đầu tư công chưa cao.
Tái cơ cấu DNNN và sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp chưa đạt mục tiêu đề ra. Đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành có công nghệ cao, giá trị gia tăng cao còn chậm. Chưa tham gia được nhiều vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Cụ thể, theo Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á 2015, chỉ có 36% các DN Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất hướng đến xuất khẩu, so với 60% của Thái Lan, Malaysia; chỉ có 21% các DN nhỏ và vừa tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, so với Malaysia là 47%, Thái Lan 30%.
Những giải pháp quan trọng
Trong thời gian tới, kinh tế thế giới phục hồi chậm và còn nhiều khó khăn. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn là trung tâm phát triển năng động của kinh tế thế giới. Ở trong nước, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế; việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cùng với việc hình thành Cộng đồng ASEAN mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức...
Trong bối cảnh đó, để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh, đạt được mục tiêu bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước, năm 2016 cao hơn năm 2015, trong đó GDP bình quân 5 năm giai đoạn 2016 – 2020 đạt 6,5 - 7%/năm, năm 2016 đạt 6,7%, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011 - 2015; phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020 và năm 2016 cũng đã đề ra các giải pháp trọng tâm:
Một là, đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh - bền vững. Kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; gắn kết hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ, cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng an ninh.
Hai là, tiếp tục triển khai Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế và tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực. Thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng khu vực nông nghiệp bình quân khoảng 3 - 3,5% và đến năm 2020 có khoảng 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đẩy mạnh tái cơ cấu công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến chế tạo, năng lực xây lắp kỹ thuật cao. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp, xây dựng bình quân khoảng 8,7 - 9,5%/năm; đến năm 2020 tỉ trọng khu vực công nghiệp trong GDP khoảng 40%. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có lợi thế, có công nghệ và giá trị gia tăng cao. Tập trung phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ bình quân 6,6 - 6,9%/năm. Tỉ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đạt 45% vào năm 2020.
Ba là, phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Chú trọng phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế, các khu công nghiệp tạo sức lan tỏa, kết nối, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời chăm lo phát triển hài hòa các khu vực, các địa bàn còn nhiều khó khăn. Sớm triển khai xây dựng hiệu quả một số đặc khu kinh tế.
Bốn là, tiếp tục tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công. Nâng cao hiệu quả và tập trung nguồn lực đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, thiết yếu. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường. Khuyến khích khu vực ngoài nhà nước đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng.
Năm là, khẩn trương triển khai thực hiện Luật Đầu tư công và Kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016 - 2020, bảo đảm quản lý tập trung, thống nhất, phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng cân đối vốn đầu tư của Nhà nước và tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước. Bố trí vốn tập trung ưu tiên cho vốn đối ứng các dự án ODA quan trọng; thu hồi vốn ứng trước; thanh toán nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản; vốn cho các công trình chuyển tiếp cấp thiết; hỗ trợ cho các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng quan trọng theo hình thức đối tác công - tư (PPP); đầu tư cho xây dựng nông thôn mới và các vùng còn nhiều khó khăn. Phân cấp rõ, đề cao trách nhiệm, tạo sự chủ động cho các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý đầu tư công, bảo đảm công khai, minh bạch.
Sáu là, tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp phù hợp với thực tế Việt Nam và thông lệ quốc tế để cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nâng cao năng lực quản trị, tiềm lực tài chính, chất lượng tín dụng, hiệu quả hoạt động, bảo đảm cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tập trung tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém. Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của VAMC. Tăng cường thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng, ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật, thao túng, gây hậu quả nghiêm trọng, xử lý nghiêm các sai phạm. Bảo đảm an toàn hệ thống.
Bảy là, phát triển mạnh các loại hình và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của DN. Tiếp tục tái cơ cấu DNNN, tập trung cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành; bán hết phần vốn trong các DN mà Nhà nước không cần nắm giữ theo cơ chế thị trường; sử dụng một phần số tiền thu được cho đầu tư phát triển; tăng cường quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu; bố trí đúng cán bộ lãnh đạo, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động. Phân định rõ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường và thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao. Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty và các nông lâm trường quốc doanh. Khuyến khích phát triển mạnh DN tư nhân, hỗ trợ hiệu quả DN nhỏ và vừa, kinh tế hộ gia đình. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng nhiều lao động. Phát triển bền vững và nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác hiệu quả. Khuyến khích các DN tham gia hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.